Chuyện AET

Trận chiến hào hùng và cuối cùng của Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu 👈

Trận chiến hào hùng và cuối cùng của Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu.

(Viết theo lời tường thuật của một người ở Trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu)


(Thưa quí độc giả Vietbao Online, người viết xin tạm ngưng mục: “Trang Sử Việt” hôm nay sẽ đăng tuần tới, để chúng ta cùng nhìn lại nền tự do ở miền Nam Việt Nam đã bị cướp mất vào ngày 30 tháng Tư năm 1975, để tưởng nhớ và cảm phục các chiến sĩ là anh hùng tí hon Thiếu Sinh Quân đã chống chọi Cộng quan can trường và dũng cảm!

30/4/1975 by Nguyễn Lộc Yên

Cảm ơn - NLY)


Hôm nay ngày 30 tháng Tư năm 2015, nhớ lại ngày này 40 năm trước, ngậm ngùi Đồng bào bị đau đớn tóc tang! Cái ngày khó quên này, tôi đã nghe một người trước kia ở Trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu, anh nói với tôi dù đã khá lâu, tôi còn nhớ rõ nét mặt anh đăm chiêu, buồn bã thở dài:


Mạo danh “cách mạng” điêu ngoa

Tự xưng “giải phóng” lọc lừa lưu manh

Gây cho non nước tan tành

Việt gian, Việt cộng đổi hình thay tên?!


Anh còn tường thuật tỉ mỉ cho tôi biết Thiếu Sinh Quân (TSQ) đã can trường chống chọi Cộng quân rất hào hùng vào giờ cuối cùng của cuộc chiến. Tôi xin được ghi lại và trân trọng gửi đến bà con để cùng ngẫm nghĩ, cùng thán phục, cùng cảm mến lòng dũng cảm của các anh hùng tí hon.


Tại Vũng Tàu, khi Cộng quân xâm nhập và chiếm đóng các vị trí trọng yếu trong thị xã, mà thị xã lúc ấy coi như đã bỏ ngỏ, đã vào tay Cộng quân. Ngoại trừ Trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu là một cứ điểm duy nhất còn chống chọi mãnh liệt, trong đêm 29 và suốt buổi sáng ngày 30-4-1975, do những Thiếu Sinh Quân tuổi từ 12, 13 .... đến 16 tuổi đã can trường tử chiến, các em tự lập phòng tuyến để tử thủ. Những chiến sĩ Thiếu Sinh Quân tí hon, nhưng tâm can thật cứng cáp, chiến công thật lẫy lừng.

Chiều ngày 28 tháng 4, trung tá Ngô Văn Dzoanh là Chỉ huy trưởng Trường Thiếu Sinh Quân, thông báo tình hình khẩn cấp, ban hành lệnh giới nghiêm và tuyên bố:

- Các em không có gì phải lo âu và rối loạn. Nhà trường đã có kế hoạch di tản toàn bộ Thiếu Sinh Quân an toàn!


Sáng ngày 29 tháng Tư, bỗng nghe tiếng đạn pháo kích rơi ầm ầm vào chân núi đài Viba ngay đằng sau lưng trường. Đại úy Lê Viết Đắc, cán bộ Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Hùng Vương liên lớp 12, liền rút súng cầm tay chạy ngược xuôi, hô hoán các Thiếu Sinh Quân nằm sát đất để tránh miểng đạn. Cộng quân pháo thêm mấy loạt nữa, nổ ầm ầm tứ tung rồi chấm dứt. Sau đấy không khí yên tĩnh trở lại.


Khoảng 11 giờ trưa, toàn trường im phăng phắc và ở trong trạng thái hoang mang, lại nghe tiếng đại uý Hoàng là cán bộ liên đoàn trưởng, thông báo qua loa phóng thanh:

- Toàn trường chuẩn bị di tản! Các thiếu sinh quân cấp trưởng trang bị vũ khí và nhận nhiệm vụ hướng dẫn và bảo vệ đoàn quân. Tập họp kiểm điểm quân số! Chuẩn bị lên đường khi có lệnh. Khoảng 1 giờ chiều ngày 29 tháng Tư, toàn thể Thiếu Sinh Quân được các cán bộ nhà trường hướng dẫn bắt đầu di tản. Thiếu Sinh Quân rời trường theo thứ tự, các em nhỏ đi trước lớn đi sau.

Đoàn người của trường Thiếu Sinh Quân đang di chuyển đến bãi biển, thì gặp toán Thủy Quân Lục Chiến chận lại. Trung tá Dzoanh đến gặp người chỉ huy toán lính Thủy Quân Lục Chiến để thương thuyết nhưng không kết quả. Vì lẽ, bãi này do Thủy Quân Lục Chiến đã tạm thời chiếm giữ trước. Trung tá Dzoanh thương thuyết không được, nên ra lệnh tất cả quay về trường.

Về đến sân trường, Chỉ huy trưởng thông báo là kế hoạch di tản được thay đổi, Thiếu Sinh Quân sẽ được bốc tại trường bằng trực thăng để đưa ra Hạm đội 7 ở ngoài khơi Vũng Tàu. Khi một chiếc trực thăng đáp xuống sân trường, cả đám cùng bật dậy như những chiếc lò xo. Nhưng hành khách của chuyến không vận này chỉ có một cố vấn Mỹ mặc thường phục, trung sĩ nhứt Ngộ là cán bộ trường, và 7 em Thiếu Sinh Quân thuộc Tiểu đoàn Quang Trung là lớp nhỏ nhất của trường.

Các em Thiếu Sinh Quân còn lại, thấp thỏm nhìn lên bầu trời thăm thẳm, chờ chiếc trực thăng kế tiếp, cố lắng nghe âm thanh của những cánh quạt trực thăng nhưng không trung vẫn bao la lặng lẽ. Khoảng 6 giờ chiều, các em Thiếu Sinh Quân sững sờ nhìn chiếc xe chở vị Chỉ huy trưởng là trung tá Dzoanh, lăn bánh vội vã rời khỏi cổng trường. Lại nghe loa phóng thanh một lần nữa xác định một cách phũ phàng:

- Kể từ giờ phút này, chúng tôi không còn trách nhiệm với các em nữa, các em hãy tự lo liệu lấy bản thân!


Tin tức cho biết, Cộng quân đã tung hơn 1 tiểu đoàn thiện chiến bao vây chung quanh Trường Thiếu Sinh Quân. Nhưng giờ đây các em như những con gà con lạc mẹ, phải tự xông xáo, kiên cường đương đầu với giặc. Các em phân công khiêng các chướng ngại vật để ngăn cản bước tiến của giặc, tổ chức liên lạc, tiếp tế đạn dược, tiếp tế nước uống và lương thực, lo liệu việc cứu thương.... Các em lớn hơn hướng dẫn các em nhỏ hơn, áp dụng uyển chuyển những bài học quân sự và kỹ thuật tác chiến đã được học hỏi tại trường.

Trời đang mưa lâm râm, bóng tối chập chờn, trong không khí lặng lẽ nặng nề, các em Thiếu Sinh Quân phát hiện người đông đảo lố nhố ở tít đằng xa, đang hùng hổ tiến về phía trường. Khi biết họ là ai, các em hô:

- Việt Cộng! Việt Cộng!

Tiếng hô vừa dứt, thì lập tức tất cả hỏa lực đặt sẵn nơi lầu 1, phòng quân số, phòng chỉ huy và các nơi tháp canh đồng loạt khai hỏa. Cộng quân không ngờ chúng lại được đón tiếp một cách sốt sắng như vậy. Hoả lực từ trong trường bắn ra thật ác liệt khoảng 15 phút. Cộng quân bị tấn công bất ngờ, một số Bộ đội bị thương và tử thương nên đành phải bò lê bò càng thối lui, chúng không ngờ những chú bé tí hon lại chống cự quá can trường và quyết liệt, điều làm cho Cộng quân điên đảo, là hoả lực từ bên trong bắn ra rất chính xác vào “các anh Bộ đội tinh nhuệ của Bác Hồ”.

Bên trong, các em chỉ nghe rời rạc vài tiếng AK bắn trả, bởi vì Cộng quân bị chống trả bất ngờ nên vô cùng hoảng hốt. Súng đang còn nổ giòn giã, thì TSQ Hoàng Văn Mạ đang thủ khẩu đại liên trên lầu, Mạ gào rất lớn:

- Ê, tụi bay! Phải bắn cho chính xác và vừa thôi, coi chừng hết đạn đấy nghe!

Tiếng gào tiết kiệm đạn dược của Mạ là đúng, nên tất cả các khẩu súng đều tạm thời ngưng bắn. Không khí vẫn còn nặng nề, còn nồng nặc mùi thuốc súng.


Ngoài trời, ánh sáng ban mai le lói còn yếu ớt. Cộng quân đã bắt đầu chấn chỉnh lại đội hình, để tấn công chiếm trường. Chúng cho một toán quân chiếm khách sạn đối diện trường ở bên kia đường và chiếm giữ các vị trí trên các tầng lầu nhằm lấy lợi thế. Một mặt, chúng đưa hỏa lực mạnh như súng cối, súng B-40 để bắn công phá, nhưng các em Thiếu Sinh Quân với vị trí phòng thủ kiên cố, hoả lực từng ấy của Cộng quân không thể uy hiếp được.

Có lẽ khâm phục lòng trung trinh của tuổi trẻ; cần hỗ trợ những mầm non tổ quốc; góp tay tiêu diệt Việt cộng, nên những người quân nhân còn trong trường không thể lặng lẽ lâu hơn, liền sau đó các em nghe tiếng nói xôn xao của hạ sĩ hỏa đầu vụ Hoành, đột ngột cùng xuất hiện với mấy người bạn của anh. Các anh nhập cuộc với các em Thiếu Sinh Quân, đã tăng thêm tay súng lão luyện, cùng chiến đấu bên trong các hệ thống phòng thủ của trường.


Trận chiến dữ dội thứ hai bắt đầu, các em bên trong thông báo cho nhau, dùng lối đánh giặc uyển chuyển: Lúc giả lặng lẽ để nhử địch, lúc phản công đồng loạt, tạo yếu tố bất ngờ, gây cho Bộ đội Bắc Việt luôn bị liểng xiểng và hoảng hốt. Sau đấy, mặc dù Cộng quân đã bắn sập một khoảng tường, nhưng không thể nào vượt qua được lưới đạn dày đặc của các chiến sĩ tí hon đang kiên cường chiến đấu. Trong lúc chiến đấu mặc dù có nhiều em đã bị thương, nhưng các em còn lại càng quyết chiến, để trả thù cho Đồng đội bị thương, để trả thù cho Đồng bào đã và đang tang tóc vì Cộng quân.

Cộng quân tức tối, huy động lực lượng đông đảo hơn, tấn công ào ạt hơn, mong giải quyết cứ điểm hiểm hóc. Nhưng Thiếu Sinh Quân ở đây có đầy đủ vũ khí cá nhân và vũ khí cộng đồng. Các em biết lợi dụng các công sự trong trường, vừa đánh vừa di chuyển khéo léo vừa ẩn núp kín đáo. Ngược lại, Bộ đội Bắc Việt lớ ngớ vì ngỡ ngàng trước sức chống chọi của các em can trường và tác chiến đúng chiến thuật, nên Bộ đội Bắc Việt loay hoay vì lạ lẫm, ngớ ngẩn vì là kẻ rừng rú mới xuống đồng bằng trống trải.

Trận chiến cầm cự kéo dài đến 10:00 giờ sáng ngày 30-4-1975. Khi đấy kho đạn dược đã cạn và kho lương thực bị trúng pháo của Cộng quân bốc cháy, các Tiểu anh hùng Thiếu Sinh Quân mới chấp nhận cho Cộng quân thương thảo. Các Tiểu anh hùng ra điều kiện phải có một giờ ngưng bắn, sau đó sẽ buông súng và mở cổng. 

 

Khâm phục thay! Các Tiểu anh hùng đã dùng một giờ ngưng bắn, liền chia ra nhiều toán, mỗi toán chịu trách nhiệm:

- Thu dọn chiến trường, săn sóc đồng đội đang bị thương.

- Chuẩn bị làm lễ hạ kỳ, các Tiểu anh hùng không cho Cộng quân làm nhục lá cờ Quốc gia. “Lá Cờ Vàng” là cờ của hồn nước, lá cờ màu vàng có từ thời Hai Bà Trưng đến triều Nguyễn, “Lá Cờ Vàng” là biểu tượng thiêng liêng của thời VNCH mà các Tiểu anh hùng đã vừa tử thủ giữ gìn. Kỷ luật, nhanh nhẹn, một Trung đội Thiếu Sinh Quân tập họp trước sân cờ, đứng trang nghiêm và thành kính nhìn lên lá Quốc kỳ còn nguyên vẹn khuôn khổ và màu sắc, đang bay phất phới giữa bầu trời bao la, trong không khí bi hùng. Hai Tiểu anh hùng: Nguyễn Văn Minh và Nguyễn Văn Chung dõng dạc bước tới, đứng nghiêm trước kỳ đài theo lễ nghi quân cách, đưa tay chào cờ. Hai Thiếu Sinh Quân nắm từng nấc dây, cho lá cờ hạ xuống thật chậm, thật trang nghiêm, như cố ghi khắc vào tâm của mình, trịnh trọng lắng nghe hồn nước như đang vang vọng. Các Tiểu anh hùng mới vừa chiến đấu, xem cái chết nhẹ tợ lông hồng, nhưng bây giờ chào quốc kỳ ngẫm nghĩ là lần cuối cùng, biết bao giờ sẽ được chào lá quốc kỳ thiêng liêng ấy trở lại, nên các Tiểu anh hùng trong lòng dâng lên nỗi ngậm ngùi, đều rơm rớm nước mắt.

Cuối cùng, Thiếu Sinh Quân treo tấm drape trắng lên, cho phép Cộng quân đặt chân vào ngưỡng cửa ngôi trường thân yêu. Khi Cộng quân vào trong trường nhìn thấy những đối thủ của mình, chỉ là các em Thiếu Sinh Quân tuổi từ 13 đến 16 tuổi mà thôi!. Họ uất ức lẫn thán phục. Họ hậm hực nhìn 6 xác bộ đội đang nằm ngổn ngang “sinh Bắc tử Nam” ngoài cổng trường, mà tác giả là các anh hùng tí hon ở đây!.


Người tường thuật trận chiến hào hùng và cuối cùng của cuộc chiến còn cho biết, trên 100 Thiếu Sinh Quân đã tham gia trận đánh, đa số đã leo rào sau trường trốn thoát trước khi Cộng quân xông vào cổng trường, chỉ còn vài chục em nhỏ ở lại với các TSQ lớn tuổi bị thương không thể ra đi. Tất cả các em còn lại, bị chúng bắt đem nhốt ở trại gia binh Cô Giang bên cạnh trường. Trại gia binh Cô Giang vốn là ngõ ngách quen thuộc của các Thiếu Sinh Quân. Nên tất cả TSQ đã lẩn trốn hết, còn khiêng theo TSQ Lê Văn Tánh bị thương nặng ở đùi. Nhốt Thiếu Sinh Quân ở Trại Cô Giang chẳng khác nào chúng nhốt hổ nơi rừng rậm.


Các em Thiếu Sinh Quân dù tuổi đời non nớt, nhưng hôm nay đã biểu lộ trọn vẹn tài năng xuất chúng, gan dạ sắt son; các Tiểu anh hùng đã noi gương khí phách hiên ngang của người anh hùng niên thiếu Trần Quốc Toản (1267-1285) thời nhà Trần, đã giương cờ với 6 chữ hào hùng: “Phá cường địch, báo Hoàng ân” hiên ngang, can trường dẹp giặc.

Trần Quốc Toản đã làm vẻ vang thiếu nhi Đại Việt:

 

“Anh hùng Quốc Toản thiếu niên

Giúp vua đánh đuổi giậc Nguyên tan tành”


Hôm nay các Tiểu anh hùng tại trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu đã sắt son thể hiện:


“Thiếu Sinh Quân, sắt son lòng

Tí hon diệt Cộng, chiến công lẫy lừng”


Trận chiến từ ngày 29-4-1975 đến ngày 30-4-1975, tại Trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu là trận đầu tiên của các em và cũng là trận cuối cùng; nhưng trận chiến này không bao giờ tiếng vang hào hùng chấm dứt, vì lòng lưu luyến ngưỡng mộ của mỗi người Việt nói riêng và nhân dân thế giới nói chung. Và trang quân sử sẽ ghi tạc thêm một trang sử với chiến tích lẫy lừng của các Tiểu anh hùng, lưu truyền muôn đời cho hậu thế.

Ngày 30 tháng Tư năm 2015

Nguyễn Lộc Yên

https://vietbao.com/a237035/tran-chien-hao-hung-va-cuoi-cung-cua-thieu-sinh-quan-vung-tau

VietBao có thể bị chặn ở VN




Trung Sĩ VŨ TIẾN QUANG Cái Bóng Của  HOÀI VĂN VƯƠNG TRẦN QUỐC TOẢN 👈

Trung Sĩ VŨ TIẾN QUANG Cái Bóng Của  HOÀI VĂN VƯƠNG TRẦN QUỐC TOẢN 

hay Truyện Người Lính Nhỏ Mà Chính Khí Lớn VŨ TIẾN QUANG

   (Trích trong bộ Lịch Sử Thiếu Sinh Quân Việt Nam) 


Vũ Tiến Quang sinh ngày 10 tháng 9 năm 1956 tại Kiên Hưng, tỉnh Chương Thiện. Thân phụ là hạ sĩ địa phương quân Vũ Tiến Đức. Ngày 20 tháng 3 năm 1961, trong một cuộc hành quân an ninh của quận, Hạ Sĩ Đức bị trúng đạn tử thương khi tuổi mới 25. Ông để lại bà vợ trẻ với hai con. Con trai lớn, Vũ Tiến Quang 5 tuổi. Con gái tên Vũ thị Quỳnh Chi mới tròn một năm. Vì có học, lại là quả phụ tử sĩ, bà Đức được thu dụng làm việc tại Chương Thiện, với nhiệm vụ khiêm tốn là thư ký tòa hành chánh. Nhờ đồng lương thư ký, thêm vào tiền tử tuất cô nhi, quả phụ, nên đời sống của bà với hai con không đến nỗi thiếu thốn. Quang học tại trường tiểu học trong tỉnh. Tuy rất thông minh, nhưng Quang chỉ thích đá banh, thể thao hơn là học. Thành ra Quang là một học sinh trung bình trong lớp. Cuối năm 1967, Quang đỗ tiểu học. Nhân đọc báo Chiến Sĩ Cộng Hoà có đăng bài: “Ngôi sao sa trường: Thượng-sĩ-sữa Trần Minh, Thiên Thần U Minh Hạ”, bài báo thuật lại: Minh xuất thân từ trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam. Sau khi ra trường, Minh về phục vụ tại tiểu đoàn Ngạc Thần (tức tiểu đoàn 2 trung đoàn 31, sư đoàn 21 Bộ Binh) mà tiểu đoàn đang đồn trú tại Chương Thiện. Quang nảy ra ý đi tìm người hùng bằng xương bằng thịt. Chú bé lóc cóc 12 tuổi, được Trần Minh ôm hôn, dẫn đi ăn phở, bánh cuốn, rồi thuật cho nghe về cuộc sống vui vẻ tại trường Thiếu Sinh Quân. Quang suýt xoa, ước mơ được vào học trường này. Qua cuộc giao tiếp ban đầu, Minh là một mẫu người anh hùng, trong ước mơ của Quang. Quang nghĩ: “Mình phải như anh Minh”. Chiều hôm đó Quang thuật cho mẹ nghe cuộc gặp gỡ Trần Minh, rồi xin mẹ nộp đơn cho mình nhập học trường Thiếu Sinh Quân. Bà mẹ Quang không mấy vui vẻ, vì Quang là con một, mà nhập học Thiếu Sinh Quân, rồi sau này trở thành anh hùng như Trần Minh thì…nguy lắm. Bà không đồng ý. Hôm sau bà gặp riêng Trần Minh, khóc thảm thiết xin Minh nói dối Quang rằng, muốn nhập học trường Thiếu Sinh Quân thì cha phải thuộc chủ lực quân, còn cha Quang là địa phương quân thì không được. Minh từ chối: - Em không muốn nói dối cháu. Cháu là Quốc Gia Nghĩa Tử thì ưu tiên nhập học. Em nghĩ chị nên cho cháu vào trường Thiếu Sinh Quân, thì tương lai của cháu sẽ tốt đẹp hơn ở với gia đình, trong khuôn khổ nhỏ hẹp. Chiều hôm ấy Quang tìm đến Minh để nghe nói về đời sống trong trường Thiếu Sinh Quân. Đã không giúp bà Đức thì chớ, Minh còn đi cùng Quang tới nhà bà, hướng dẫn bà thủ tục xin cho Quang nhập trường. Thế rồi bà Đức đành phải chiều con. Bà đến phòng 3, tiểu khu Chương Thiện làm thủ tục cho con. Bà gặp may. Trong phòng 3 Tiểu Khu, có Trung Sĩ Nhất Cao Năng Hải, cũng là cựu Thiếu Sinh Quân. Hải lo làm tất cả mọi thủ tục giúp bà. Sợ bà đổi ý, thì mình sẽ mất thằng em dễ thương. Hải lên gặp Thiếu-tá Lê Minh Đảo, Tiểu Khu trưởng trình bầy trường hợp của Quang. Thiếu Tá Đảo soạn một văn thư, đính kèm đơn của bà Đức, xin bộ Tổng Tham Mưu dành ưu tiên cho Quang. Tháng 8 năm 1968, Quang được giấy gọi nhập học trường Thiếu Sinh Quân, mà không phải thi. Bà Đức thân dẫn con đi Vũng Tàu trình diện. Ngày 2 tháng 9 năm 1969, Quang trở thành một Thiếu Sinh Quân Việt Nam. Quả thực trường Thiếu Sinh Quân là thiên đường của Quang. Quang có nhiều bạn cùng lứa tuổi, dư thừa chân khí, chạy nhảy vui đùa suốt ngày. Quang thích nhất những giờ huấn luyện tinh thần, những giờ học quân sự. Còn học văn hóa thì Quang lười, học sao đủ trả nợ thầy, không bị phạt là tốt rồi. Quang thích đá banh, và học Anh văn. Trong lớp, môn Anh văn, Quang luôn đứng đầu. Chỉ mới học hết đệ lục, mà Quang đã có thể đọc sách báo bằng tiếng Anh, nói truyện lưu loát với cố vấn Mỹ. 

Giáo-sư Việt văn của Quang là thầy Phạm Văn Viết, người mà Quang mượn bóng dáng để thay thế người cha. Có lần thầy Viết giảng đến câu :   “Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,

Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh” 

(Người ta sinh ra, ai mà không chết.

Cần phải lưu chút lòng son vào thanh sử).   Quang thích hai câu này lắm, luôn miệng ngâm nga, rồi lại viết vào cuốn sổ tay. 

Trong giờ học sử, cũng như giờ huấn luyện tinh thần, Quang được giảng chi tiết về các anh hùng : Hoài Văn Vương Trần Quốc Toản, thánh tổ của Thiếu Sinh Quân, giết tươi Toa Đô trong trận Hàm Tử. Quang cực kỳ sùng kính Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng, từ chối công danh, chịu chết cho toàn chính khí. Quang cũng khâm phục Nguyễn Biểu, khi đối diện với quân thù, không sợ hãi, lại còn tỏ ra khinh thường chúng. Ba nhân vật này ảnh hưởng vào Quang rất sâu, rất đậm. Suốt các niên học từ 1969-1974, mỗi kỳ hè, được phép 2 tháng rưỡi về thăm nhà, cậu bé Thiếu Sinh Quân Vũ Tiến Quang tìm đến các đàn anh trấn đóng tại Chương Thiện để trình diện. Quang được các cựu Thiếu Sinh Quân dẫn đi chơi, cho ăn quà, kể truyện chiến trường cho nghe. Một số ông uống thuốc liều, cho Quang theo ra trận. Quang chiến đấu như một con sư tử. Không ngờ mấy ông anh cưng cậu em út quá, mà gây ra một truyện động trời, đến nỗi bộ Tổng Tham Mưu Việt Nam, bộ Tư-lệnh MACV cũng phải rởn da gà! Sau trở thành huyền thoại. Câu chuyện như thế này: 


Hè 1972, mà quân sử Việt Nam gọi là Mùa Hè Đỏ Lửa, giữa lúc chiến trường toàn quốc sôi động. Bấy giờ Quang đã đỗ chứng chỉ 1 Bộ Binh. Được phép về thăm nhà, được các đàn anh cho ăn, và giảng những kinh nghiệm chiến trường, kinh nghiệm đời. Quang xin các anh cho theo ra trận. Mấy ông cựu Thiếu Sinh Quân, trăm ông như một, ông nào gan cũng to, mật cũng lớn, lại coi trời bằng vung. Yêu cậu em ngoan ngoãn, các ông chiều…cho Quang ra trận. Cuộc hành quân nào mấy ông cũng dẫn Quang theo. Trong môt cuộc hành quân cấp sư đoàn, đánh vào vùng Hộ Phòng, thuộc Cà Mau. Đơn vị mà Quang theo là trung đội trinh sát của trung đoàn 31. Trung đội trưởng là một thiếu úy cựu Thiếu Sinh Quân. Hôm ấy, thông dịch viên cho cố vấn bị bệnh, Quang lại giỏi tiếng Anh, nên thiếu úy trung đội trưởng biệt phái Quang làm thông dịch viên cho cố vấn là thiếu úy Hummer. Trực thăng vừa đổ quân xuống thì hiệu thính viên của Hummer trúng đạn chết ngay. Lập tức Quang thay thế anh ta. Nghĩa là mọi liên lạc vô tuyến, Hummer ra lệnh cho Quang, rồi Quang nói lại trong máy. 


Trung đội tiến vào trong làng thì lọt trận điạ phục kích của trung đoàn chủ lực miền, tên trung đoàn U Minh. Trung đội bị một tiểu đoàn địch bao vây. Vừa giao tranh được mười phút thì Hummer bị thương. Là người can đảm, Hummer bảo Quang đừng báo cáo về Trung-tâm hành quân. Trận chiến kéo dài sang giờ thứ hai thì Hummer lại bị trúng đạn nữa, anh tử trận, thành ra không có ai liên lạc chỉ huy trực thăng võ trang yểm trợ. Kệ, Quang thay Hummer chỉ huy trực thăng võ trang. Vì được học địa hình, đọc bản đồ rất giỏi, Quang cứ tiếp tục ra lệnh cho trực thăng võ trang nã vào phòng tuyến địch, coi như Hummer còn sống. Bấy giờ quân hai bên gần như lẫn vào nhau, chỉ còn khoảng cách 20-30 thước. 

Thông thường, tại các quân trường Hoa-kỳ cũng như Việt Nam, dạy rằng khi gọi pháo binh, không quân yểm trợ, thì chỉ xin bắn vào trận địa địch với khoảng cách quân mình 70 đến 100 thước. Nhưng thời điểm 1965-1975, các cựu Thiếu Sinh Quân trong khu 42 chiến thuật khi họp nhau để ăn uống, siết chặt tình thân hữu, đã đưa ra phương pháp táo bạo là xin bắn vào phòng tuyến địch, dù cách mình 20 thước. Quang đã được học phương pháp đó. Quang chỉ huy trực thăng võ trang nã vào trận địch, nhiều rocket (hoả tiễn nhỏ), đạn 155 ly nổ sát quân mình, làm những binh sĩ non gan kinh hoảng. Nhờ vậy, mà trận địch bị tê liệt. 


Sau khi được giải vây, mọi người khám phá ra Quang lĩnh tới bẩy viên đạn mà không chết: trên mũ sắt có bốn vết đạn bắn hõm vào; hai viên khác trúng ngực, may nhờ có áo giáp, bằng không thì Quang đã ô-hô ai-tai rồi. Viên thứ bẩy trúng…chim. Viên đạn chỉ xớt qua, bằng không thì Quang thành thái giám. Trung-tá J.F. Corter, cố vấn trưởng trung đoàn được trung đội trưởng trinh sát báo cáo Hummer tử trận lúc 11 giờ 15. Ông ngạc nhiên hỏi: - Hummer chết lúc 11.15 giờ, mà tại sao tôi vẫn thấy y chỉ huy trực thăng, báo cáo cho đến lúc 17 giờ? Vì được học kỹ về tinh thần trách nhiệm, Quang nói rằng mình là người lạm quyền, giả lệnh Hummer, thay Hummer chỉ huy. Quang xin lỗi Corter. Trung-tá J.F. Corter tưởng Quang là lính người lớn, đề nghị gắn huy chương Hoa Kỳ cho Quang. Bấy giờ mới lòi đuôi chuột ra rằng các ông cựu Thiếu Sinh Quân đã uống thuốc liều, cho thằng em sữa ra trận.


Đúng ra theo quân luật, mấy ông anh bị phạt nặng, Quang bị đưa ra tòa vì “Không có tư cách mà lại chỉ huy”. Nhưng các vị sĩ quan trong sư đoàn 21, trung đoàn 31 cũng như cố vấn đều là những người của chiến trường, tính tình phóng khoáng, nên câu truyện bỏ qua. Quang không được gắn huy chương, mà mấy ông anh cũng không bị phạt. Hết hè, Quang trở về trường mang theo kỷ niệm chiến đấu cực đẹp trong đời cậu bé, mà cũng là kỷ niệm đẹp vô cùng của Thiếu Sinh Quân Việt Nam. Câu truyện này trở thành huyền thoại. Huyền thoại này lan truyền mau lẹ khắp năm tỉnh của khu 42 chiến thuật : Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Chương Thiện. Quang trở thành người hùng lý tưởng của những thiếu nữ tuổi 15-17 ! 

Năm 1974, sau khi đỗ chứng chỉ 2 Bộ Binh, Quang ra trường, mang cấp bậc trung sĩ. Quang nộp đơn xin về sư đoàn 21 Bộ Binh. Quang được toại nguyện. Sư đoàn phân phối Quang về tiểu đoàn Ngạc Thần tức tiểu đoàn 2 trung đoàn 31, tiểu đoàn của Trần Minh sáu năm trước. Thế là giấc mơ 6 năm trước của Quang đã thành sự thực. Trung đoàn 31 Bộ Binh đóng tại Chương Thiện. Bấy giờ tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng Chương Thiện là Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, tham mưu trưởng tiểu khu là Thiếu Tá Nguyễn Văn Thời. Cả hai đều là cựu Thiếu Sinh Quân. Đại-tá Cẩn là cựu Thiếu Sinh Quân cao niên nhất vùng Chương Thiện bấy giờ (36 tuổi). Các cựu Thiếu Sinh Quân trong tiểu đoàn 2-31 dẫn Quang đến trình diện anh hai Cẩn. Sau khi anh em gặp nhau, Cẩn đuổi tất các tùy tùng ra ngoài, để anh em tự do xả xú báp. 

Cẩn bẹo tai Quang một cái, Quang đau quá nhăn mặt. Cẩn hỏi: - Ê ! Quang, nghe nói mày lĩnh bẩy viên đạn mà không chết, thì mày thuộc loại mình đồng da sắt. Thế sao tao bẹo tai mày, mà mày cũng đau à? - Dạ, đạn Việt-cộng thì không đau. Nhưng vuốt anh cấu thì đau. - Móng tay tao, đâu phải vuốt? - Dạ, người ta nói anh là cọp U Minh Thượng…Thì vuốt của anh phải sắc lắm. - Hồi đó suýt chết, thế bây giờ ra trận mày có sợ không? - Nếu khi ra trận anh sợ thì em mới sợ. Cái lò Thiếu Sinh Quân có bao giờ nặn ra một thằng nhát gan đâu ? - Thằng này được. Thế mày đã trình diện anh Thời chưa? - Dạ anh Thời-thẹo không có nhà. Thiếu Tá Nguyễn Văn Thời, tham mưu trưởng Tiểu-khu, uy quyền biết mấy, thế mà một trung sĩ 18 tuổi dám gọi cái tên húy thời thơ ấu ra, thì quả là một sự phạm thượng ghê gớm. Nhưng cả Thời lẫn Quang cùng là cựu Thiếu Sinh Quân thì lại là một sự thân mật. Sau đó anh em kéo nhau đi ăn trưa. Lớn, bé cười nói ồn ào, như không biết tới những người xung quanh. Bấy giờ tin Trần Minh đã đền nợ nước tại giới tuyến miền Trung. Sự ra đi của người đàn anh, của người hùng lý tưởng làm Quang buồn không ít. Nhưng huyền thoại về Trần Minh lưu truyền, càng làm chính khí trong người Quang bừng bừng bốc lên. Tại sư đoàn 21 Bộ Binh, tất cả các hạ sĩ quan cũng như các Thiếu Sinh Quân mới ra trường, thường chỉ được theo hành quân như một khinh binh. Đợi một vài tháng đã quen với chiến trường, rồi mới được chỉ định làm tiểu đội trưởng. Nhưng vừa trình diện, Quang được cử làm trung đội phó ngay, dù hầu hết các tiểu đội trưởng đều ở cấp trung sĩ, trung sĩ nhất, mà những người này đều vui lòng. Họ tuân lệnh Quang răm rắp! Sáu tháng sau, đầu năm 1975 nhờ chiến công, Quang được thăng trung sĩ nhất, nhưng chưa đủ một năm thâm niên, nên chưa được gửi đi học sĩ quan. Quang trở thành nổi tiếng trong trận đánh ngày 1-2-1975, tại Thới Lai, Cờ Đỏ. Trong ngày hôm ấy, đơn vị của Quang chạm phải tiểu đoàn Tây Đô. Đây là một tiểu đoàn được thành lập từ năm 1945, do các sĩ quan Nhật Bản không muốn về nước, trốn lại Việt Nam…huấn luyện. Quang đã được Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn giảng về kinh nghiệm chiến trường: 

“Tây Đô là tiểu đoàn cơ động của tỉnh Cần Thơ. Tiểu đoàn có truyền thống lâu đời, rất thiện chiến. Khi tác chiến cấp đại đội, tiểu đoàn chúng không hơn các đơn vị khác làm bao. Nhưng tác chiến cấp trung đội, chúng rất giỏi. Chiến thuật thông thường, chúng dàn ba tiểu đội ra, chỉ tiểu đội ở giữa là nổ súng. Nếu thắng thế, thì chúng bắn xối xả để uy hiếp tinh thần ta, rồi hai tiểu đội hai bên xung phong. Nếu yếu thế, thì chúng lui. Ta không biết, đuổi theo, thì sẽ dẫm phải mìn, rồi bị hai tiểu đội hai bên đánh ép. Vì vậy khi đối trận với chúng, phải im lặng không bắn trả, để chúng tưởng ta tê liệt. Khi chúng bắt đầu xung phong, thì dùng vũ khí cộng đồng nã vào giữa, cũng như hai bên. Thấy chúng chạy, thì tấn công hai bên, chứ đừng đuổi theo. Còn như chúng tiếp tục xung phong ta phải đợi chúng tới gần rồi mớí phản công”. Bây giờ Quang có dịp áp dụng. Sau khi trực thăng vận đổ quân xuống. Cả đại đội của Quang bị địch pháo chụp lên đầu, đại liên bắn xối xả. Không một ai ngóc đầu dậy được. Nhờ pháo binh, trực thăng can thiệp, sau 15 phút đại đội đã tấn công vào trong làng. Vừa tới bìa làng, thiếu úy trung đội trưởng của Quang bị trúng đạn lật ngược. Quang thay thế chỉ huy trung đội. Trung đội dàn ra thành một tuyến dài đến gần trăm mét. Đến đây, thì phi pháo không can thiệp được nữa, vì quân hai bên chỉ cách nhau có 100 mét, gần như lẫn vào nhau. Nhớ lại lời giảng của Cẩn, Quang ra lệnh im lặng, chỉ nổ súng khi thấy địch. Ngược lại ngay trước mặt Quang, khoảng 200 thước là một cái hầm lớn, ngay trước hầm hai khẩu đại liên không ngừng nhả đạn. Quang ghi nhận vị trí hai khẩu đại liên với hai khẩu B40 ra lệnh: 

” Lát nữa khi chúng xung phong thì dùng M79 diệt hai khẩu đại liên, B40, rồi hãy bắn trả “. Sau gần 20 phút, thình lình địch xả súng bắn xối xả như mưa, như gió, rồi tiếng hô xung phong phát ra. Chỉ chờ có thế, M79 của Quang khai pháo. Đại liên, B40 bị bắn tung lên, trong khi địch đang xung phong. Bấy giờ trung đội của Quang mới bắn trả. Chỉ một loạt đạn, toàn bộ phòng tuyến địch bị cắt. Quang ra lệnh xung phong. Tới căn hầm, binh sĩ không dám lại gần, vì bị lựu đạn từ trong ném ra. Quang ra lệnh cho hai khẩu đại liên bắn yểm trợ, rồi cho một khinh binh bò lại gần, tung vào trong một quả lựu đạn cay. Trong khi Quang hô : - Ra khỏi hầm, dơ tay lên đầu ! Bằng không lựu đạn sẽ ném vào trong. Cánh cửa hầm mở ra, mười tám người, nam có, nữ có, tay dơ lên đầu, ra khỏi hầm, lựu đạn cay làm nước mắt dàn dụa. 

Đến đây trận chiến chấm dứt. 

Thì ra 18 người đó là đảng bộ và ủy ban nhân dân của huyện châu thành Cần Thơ. Trong đó có viên huyện ủy và viên chủ tịch ủy ban nhân dân huyện. Sau trận này Quang được tuyên dương công trạng trước quân đội, được gắn huy chương Anh Dũng Bội Tinh với nhành dương liễu. Trong lễ chiến thắng giản dị, Quang được một nữ sinh trường Đoàn Thị Điểm quàng vòng hoa. Nữ sinh đó tên Nguyễn Hoàng Châu, 15 tuổi, học lớp đệ ngũ. Cho hay, anh hùng với giai nhân xưa nay thường dễ cảm nhau. Quang, Châu yêu nhau từ đấy. Họ viết thư cho nhau hàng ngày. Khi có dịp theo quân qua Cần Thơ, thế nào Quang cũng gặp Châu. Đôi khi Châu táo bạo, xuống Chương Thiện thăm Quang. Mẹ Quang biết truyện, bà lên Cần Thơ gặp cha mẹ Châu. Hai gia đình đính ước với nhau. Họ cùng đồng ý : Đợi năm tới, Quang xin học khóa sĩ quan đặc biệt, Châu 17 tuổi, thì cho cưới nhau. 

Nhưng mối tình đó đã đi vào lịch sử… Tình hình toàn quốc trong tháng 3, tháng 4 năm 1975 biến chuyển mau lẹ. Ban Mê Thuột bị mất, Quân Đoàn 2 rút lui khỏi Cao Nguyên, rồi Quân Đoàn 1 bỏ mất lãnh thổ. Rồi các sĩ quan bộ Tổng Tham Mưu được Hoa Kỳ bốc đi. Ngày 29-4, trung đội của Quang chỉ còn mười người. Tiểu đoàn trưởng, đại đội trưởng bỏ ngũ về lo di tản gia đình. Quang vào bộ chỉ huy tiểu khu Chương Thiện trình diện Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn. Cẩn an ủi : - Em đem mấy người thuộc quyền vào đây ở với anh. Ngày 30 tháng 4 năm 1975, viên tướng mặt bánh đúc, đần độn Dương Văn Minh phát thanh bản văn ra lệnh cho quân đội Việt Nam Cộng-hòa buông súng đầu hàng. Tất cả các đơn vị quân đội miền Nam tuân lệnh, cởi bỏ chiến bào, về sống với gia đình. Một vài đơn vị lẻ lẻ còn cầm cự. Tiếng súng kháng cự của các đơn vị Dù tại Sài-gòn ngừng lúc 9 giờ 7 phút. Đúng lúc đó tại Chương Thiện, tỉnh trưởng kiêm Tiểu Khu trưởng là Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn. Ông đang chỉ huy các đơn vị thuộc quyền chống lại cuộc tấn công của Cộng quân. Phần thắng đã nằm trong tay ông. Lệnh của Dương Văn Minh truyền đến. Các quận trưởng chán nản ra lệnh buông súng. Chỉ còn tỉnh lỵ là vẫn chiến đấu. Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn ra lệnh: 

“Dương Văn Minh lên làm Tổng-thống trái với hiến pháp. Ông ta không có tư cách của vị Tổng Tư Lệnh. Hãy tiếp tục chiến đấu”. Nhưng đến 12 giờ trưa, các đơn vị dần dần bị tràn ngập, vì quân ít, vì hết đạn vì mất tinh thần. Chỉ còn lại bộ chỉ huy tiểu khu. Trong bộ chỉ huy tiểu khu, có một đại đội địa phương quân cùng nhân viên bộ ham mưu. Đến 13 giờ, lựu đạn, đạn M79 hết. Tới 14 giờ 45, thì đạn hết, làn sóng Cộng quân tràn vào trong bộ chỉ huy. Cuối cùng chỉ còn một ổ kháng cự từ trong một hầm chiến đấu, nơi đó có khẩu đại liên. Một quả lựu đạn cay ném vào trong hầm, tiếng súng im bặt. Quân Cộng Sản vào hầm lôi ra hai người. Một là Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, tỉnh trưởng, kiêm tiểu khu trưởng và một trung sĩ mớí 19 tuổi. Trung sĩ đó tên là Vũ Tiến Quang. 

Bấy giờ đúng 15 giờ. 

Kẻ chiến thắng trói người chiến bại lại. Viên đại tá chính ủy của đơn vị có nhiệm vụ đánh tỉnh Chương Thiện hỏi: - Đ.M. Tại sao có lệnh đầu hàng, mà chúng mày không chịu tuân lệnh? Đại Tá Cẩn trả lời bằng nụ cười nhạt. 

Trung sĩ Quang chỉ Đại Tá Cẩn: - Thưa đại tá, tôi không biết có lệnh đầu hàng. Ví dù tôi biết, tôi cũng vẫn chiến đấu. Vì anh ấy là cấp chỉ huy trực tiếp của tôi. Anh ra lệnh chiến đấu, thì tôi không thể cãi lệnh. Cộng quân thu nhặt xác chết trong, ngoài bộ chỉ huy tiểu khu. Viên chính ủy chỉ những xác chết nói với Đại Tá Cẩn: - Chúng mày là hai tên ngụy ác ôn nhất. Đ.M. Chúng mày sẽ phải đền tội. Đại Tá Cẩn vẫn không trả lời, vẫn cười nhạt. Trung sĩ Quang ngang tàng: - Đại tá có lý tưởng của đại tá, tôi có lý tưởng của tôi. Đại tá theo Karl Marx, theo Lénine; còn tôi, tôi theo vua Hùng, vua Trưng. Tôi tuy bại trận, nhưng tôi vẫn giữ lý tưởng của tôi. Tôi không gọi đại tá là tên Việt Cộng. Tại sao đại tá lại mày tao, văng tục với chúng tôi như bọn ăn cắp gà, phường trộm trâu vậy? Phải chăng đó ngôn ngữ của đảng Cộng-sản ? Viên đại tá rút súng kề vào đầu Quang: - Đ.M. Tao hỏi mày, bây giờ thì mày có chính nghĩa hay tao có chính nghĩa? - Xưa nay súng đạn trong tay ai thì người đó có lý. Nhưng đối với tôi, tôi học trường Thiếu Sinh Quân, súng đạn là đồ chơi của tôi từ bé. Tôi không sợ súng đâu. Đại tá đừng dọa tôi vô ích. Tôi vẫn thấy tôi có chính nghĩa, còn đại tá không có chính nghĩa. Tôi là con cháu Hoài Văn Vương Trần Quốc Toản mà. - Đ.M. Mày có chịu nhận mày là tên ngụy không? - Tôi có chính nghĩa thì tôi không thể là ngụy. Còn Cộng quân dùng súng giết dân mới là ngụy, là giặc cướp. Tôi nhất quyết giữ chính khí của tôi như Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng, như Nguyễn Biểu. Quang cười ngạo nghễ: - Nếu đại tá có chính nghĩa tại sao đại tá lại dùng lời nói thô tục vớí tôi? Ừ! Muốn mày tao thì mày tao. Đ.M. tên Cộng Sản ác ôn! Nếu tao thắng, tao dí súng vào thái dương mày rồi hỏi: Đ.M.Mày có nhận mày là tên Việt Cộng không? Thì mày trả lời sao? Một tiếng nổ nhỏ, Quang ngã bật ngửa, óc phọt ra khỏi đầu, nhưng trên môi người thiếu niên còn nở nụ cười. Tôi không có mặt tại chỗ, thành ra không mường tượng ý nghĩa nụ cười đó là nụ cười gì? Độc giả của tôi vốn thông minh, thử đoán xem nụ cưòi đó mang ý nghĩa nào? Nụ cười hối hận ? Nụ cười ngạo nghễ? Nụ cười khinh bỉ? Hay nụ cười thỏa mãn? 


Ghi chú :

Nhân chứng quan trọng nhất, chứng kiến tận mắt cái chết của Vũ Tiến Quang thuật cho tác giả nghe là cô Vũ Thị Quỳnh Chi. Cô là em ruột của Quang, nhỏ hơn Quang 4 tuổi. Lúc anh cô bị giết, cô mới 15 tuổi (cô sinh năm 1960). Hiện (1999) cô là phu nhân của bác sĩ Jean Marc Bodoret, học trò của tôi, cư trú tại Marseille. Cái lúc mà Quang ngã xuống, thì trong đám đông dân chúng tò mò đứng xem có tiếng một thiếu nữ thét lên như xé không gian, rồi cô rẽ những người xung quanh tiến ra ôm lấy xác Quang. Thiếu nữ đó là Nguyễn Hoàng Châu. Em gái Quang là Vũ thị Quỳnh Chi đã thuê được chiếc xe ba bánh. Cô cùng Nguyễn Hoàng Châu ôm xác Quang bỏ lên xe, rồi bọc xác Quang bằng cái Poncho, đem chôn. Chôn Quang xong, Châu từ biệt Quỳnh Chi, trở về Cần Thơ. Nhưng ba ngày sau, vào một buổi sáng sớm Quỳnh-Chi đem vàng hương, thực phẩm ra cúng mộ anh, thì thấy Châu trong bộ y phục trắng của nữ sinh, chết gục bên cạnh. Mặt Châu vẫn tươi, vẫn đẹp như lúc sống. Đích thân Quỳnh Chi dùng mai, đào hố chôn Châu cạnh mộ Quang. Năm 1998, tôi có dịp công tác y khoa trong đoàn Liên Hiệp các viện bào chế Châu Âu (CEP= Coopérative Européenne Pharmaceutique) , tôi đem J.M Bodoret cùng đi, Quỳnh Chi xin được tháp tùng chồng. Lợi dụng thời gian nghỉ công tác 4 ngày, từ Sài-gòn, chúng tôi thuê xe đi Chương Thiện, tìm lại ngôi mộ Quang-Châu. Ngôi mộ thuộc loại vùi nông một nấm dãi dầu nắng mưa, cỏ hoa trải 22 năm, rất khó mà biết đó là ngôi mộ. Nhưng Quỳnh-Chi có trí nhớ tốt. Cô đã tìm ra. Cô khóc như mưa, như gió, khóc đến sưng mắt. Quỳnh-Chi xin phép cải táng, nhưng bị từ chối. Tuy nhiên, cuối cùng có tiền thì mua tiên cũng được. Giấy phép có. Quỳnh-Chi cải táng mộ Quang-Châu đem về Kiên Hưng, chôn cạnh mộ của ông Vũ Tiến Đức. Quỳnh-Chi muốn bỏ hài cốt Quang, Châu vào hai cái tiểu khác nhau. Tôi là người lãng mạn. Tôi đề nghị xếp hai bộ xương chung với nhau vào trong một cái hòm. Bodoret hoan hô ý kiến của sư phụ. Ngôi mộ của ông Đức, của Quang-Châu xây xong. Tôi cho khắc trên miếng đồng hàng chữ:   “Nơi đây AET Vũ Tiến Quang, 19 tuổi,

An giấc ngàn thu cùng

Vợ là Nguyễn Hoàng Châu

Nở nụ cười thỏa mãn vì thực hiện được giấc mộng”   Giấc mộng của Quang mà tôi muốn nói, là: được nhập học trường Thiếu Sinh Quân, rồi trở thành anh hùng. Giấc mộng của Châu là được chết, được chôn chung với người yêu. Nhưng người ta có thể hiểu rằng: Quang thỏa mãn nở nụ cười vì mối tình trọn vẹn. 


Paris ngày 13 tháng 4 năm 1999.

Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ. 

AET Trang Văn Thành Tử Chiến Trên Không Phận Sài Gòn.  👈

Tử Chiến Trên Không Phận Sài Gòn


Hào Kiệt Phương Nam – Phi Công Trang Văn Thành (Thành Mọi hoặc Thành Cambodia)


Phi Công Trung Úy Trang Văn Thành sinh ngày 16/9/1947 tại Rạch Gía, tình Kiên Giang. Trung Úy Thành mồ côi cha từ năm lên 9 tuổi. Cha của Thành là ông Trang Văn Cánh, một nhân viên làm việc cho Chính Phủ VNCH. Tàu “ bobo” ciủa ông đã bị bọn khủng bố việt cộng phục kích và tấn công. Ông Cảnh bị trọng thương rơi xuống sông, ông cố bơi vào bờ nhưng đã qua đời vì vết thương quá nặng.


Cậu bé mồ côi cha Trang Văn Thành được mẹ gửi vào trường để theo học Thiếu Sinh Quân ở Vũng Tàu, Việt Nam. Trường luyện thép TSQ này đã trui luyện một Trang Văn Thành dũng cảm trong chiến tranh, có tinh thần chống cộng cao độ, quyết chiến đấu và đã tử trận cùng phi hành đoàn dũng cảm AC-119K của ông, trong ngày Sài Gòn thất thủ 29 tháng tư năm 1975.


Trang Văn Thành gia nhập Quân Chủng Không Quân VNCH năm 1968, ngành phi công. Ông du học Hoa Kỳ năm 1969 và trở về VN giữa năm 1970. Ông đã phục vụ cho Phi Đoàn Xích Long 413, vận tải cơ C-119, loại phi cơ chuyên chở hành khách và hàng hóa với tư cách hoa tiêu phụ. Một năm sau, ông được thụ huấn hoa tiêu chánh và rổi trở thành Trưởng Phi Cơ AC-119K của phi hành đoàn vận tải cơ chiến đấu tân lập Tỉnh Long 821. Sau khi phi đoàn vận tải chuyên chở hành khách, Xích Long 413 giải tán vào cuối năm 1971.


Trung Úy Thành đã chọn vận tải cơ tác chiến cho sự nghiệp quân đội của ông. Lúc đó, Trang Văn Thành đã kết hôn với chị Võ Thị Hòa là cháu gái của Thiếu Tướng Võ Xuân Lành, Tư Lệnh Phó Không Quân, nhân vật đứng hàng thứ hai của Không Lực VNCH. “Đường chú chú đi, đường cháu cháu đi”. Thành đã không nhờ vả người chú vợ đầy quyền lực. Ông đã hiên ngang chọn lựa con đường chiến đấu trực tiếp trên chiến trường, để còn có cơ hội bảo vệ đất nước và “thù cha phải trả”.


Trận chiến chưa tàn


Sau hai tiếng đồng hồ chịu đựng trận mưa pháo long trời lở đất do cộng sản Việt Nam dội vào phi trường Tân Sơn Nhất. Khơi dậy cơn phẫn nộ của dũng sĩ Trang Văn Thành, con người không khuất phục định mệnh, không khoanh tay chờ địch đập pháo sát hại, không ngồi yên đợi kẻ thù tràn đến tàn sát “Còn nhân viên, còn phi cơ, còn súng đạn, phải còn chiến đấu!”. Thành đã phân tích, so sánh vá quyết định: Chết vì bị đạn pháo kích của địch ở phi trường hoặc chết vì đạn phòng không của giặc trên không trung cùng ý nghĩa của sự chết. Nhưng chiến đấu để chết là cái chết oanh liệt, vô cùng ý nghĩa của một quân nhân gan dạ có tránh nhiêm bảo vệ quê hương, vì dân, vì nước, vì sự an nguy của ngừoi thân, bằng hữu và bá tánh.


“Thù cha phải trả” giấc mơ bao năm trời, ông đã thức trắng thâu đêm bay tên toàn cõi quê hương , trên không phận đường mòn hồ chí minh, để săn đuổi và diệt địch. Giờ đây, giặc đã tìm đến nhà. Tại sao lại phải cúi đầu rút cổ chờ chết trong bốn bức tường phi đoàn này? Trang Văn Thành đã quyết định phải bay lên không, chiến đấu và diệt địch trước khi ông gục ngã vì kẻ thù.


Trang Văn Thành mạnh dạn đứng lên, dõng dạc kêu gọi đồng đội, tự điều động phi hành đoàn dự bị của ông để bay lên không quyết tử chiến. Dù thời điểm đó, Bộ Tư Lệnh Không quân, Bộ Tổng Tham Mưu, Bộ Quốc Phòng và Chính phủ VNCH đã tê liệt.


Trong đám đông của hơn 40 nhân viên phi hành hiện diện tại Phi đoàn Tỉnh Long 821, AC-119K. Người ta đã nhìn ông trong sự ngạc nhiên, thương hại với ý nghĩ thầm lặng “ Thằng điên”. Khi cuộc chiến VN đã hoàn toàn kết thúc và thua cuộc, ai ai cũng đang tìm đường bôn tẩu, kiếm cách đưa vợ con và thân nhân ra khỏi nước VN, để tránh một cuộc trả thù và tàn sát của Việt cộng.


Trong ý chí của Thành hoàn toàn trái ngược, với ông trận chiến vẫn chưa tàn và cuộc chơi chiến tranh chỉ mới bắt đầu. Ý nghĩ trả thù cho thân phụ đang bùng cháy mãnh liệt trong tâm tư người sĩ quan mang mối thù cha cao ngất. Cuồn cuộn dâng lên theo những tiếng nổ xé nát không gian của kẻ thù.



Sự im lặng của mọi người vỡ tan, một số những người lính Không Quân dũng cảm, tự cảm thấy mình phải có trách nhiệm thi hành phi vụ để bảo vệ thủ đô Sài Gòn lần lượt đứng lên.


Trung Sĩ Nhất Phan Quốc Tuấn, kỹ sư phi hành

Trung Úy Trần Văn Hiền,

Sĩ quan điều hành viên

Sĩ quan hồng ngoại tuyến,

Hạ sĩ quan hỏa châu,

Trung sĩ Chín

Hạ sĩ quan Vũ khí Phi hành Nguyễn Thái Bình


Tất cả đã cùng đứng lên tiến về phía Trang Văn Thành, theo tiếng gọi của non sông. Họ cùng hỗ trợ Trang Văn Thành đứng lên diệt giặc, sống và chết có nhau trong những giây phút tử sinh cuối cùng của cuộc chiến VN. Họ đã thành lập một phi hành đoàn bất thường, đoàn kết và gan dạ. Một phi hành đoàn thực sự có tinh thần chiến đấu duy nhất còn sót lại của Không lực VNCH.


Giờ hành động đã điểm. Trước khi cho phi cơ bay vào mục tiêu, chuẩn bị trận đánh không địa của chiến đấu cơ AC-119K. Trung Úy Thành đã hội ý cùng phi hành đoàn lần cuối truớc khi ông quyết định đưa vào trận chiến.

– Các anh em có ý kiến gì? Chúng ta có nên tiến vào mục tiêu diệt địch bây giờ hay không?


Tất cả những gương mặt đều tự tin trong im lặng. Tất nhiên họ đã hiện diện trên phi cơ là họ chấp nhận một cuộc tử chiến, quần thảo với địch, cứu nguy thành phố Sàigòn đang trong cơn sốt sụp đổ, sắp rơi vào tay địch. Chính vợ con và thân nhân của họ cũng sẽ gánh chịu hậu quả của sự trả thù thê thảm sau một cuộc bại trận, do phe Cộng sản nham hiểm sẽ chiến thắng. Không còn chọn lựa nào khác, nếu phải hy sinh. Một giọng phát ra từ máy liên thoại phi hành đoàn:

– Quyết định thi hành phi vụ này là chúng tôi đã chấp nhận sự hy sinh. Tùy theo quyết định của Trung úy.


Trung Úy Trang Văn Thành lái chiếc phi cơ bay bọc từ phia nam thủ đô Sàigòn vòng lên hướng bắc để đánh vòng bay đầu tiên vào các mục tiêu đã được phi hành đoàn ghi nhận. Một tràng liên thanh ầm ĩ, nòng súng minigun xoay tròn, khói bốc lên, lửa đỏ lóe sáng, 6.000 viên đạn tua tủa bay ra khỏi các nòng súng trong một phút, tạo thành những vệt đạn lửa trải rộng gần một cây số, nằm trong tầm tác xạ của loại vũ khí độc hại này, địch sẽ không còn cơ hội sống.


Tiếp nối các vòng bay tấn công và diệt địch thứ hai rồi thứ ba. Tiếp tục cuộc chiến đấu đầy dũng cảm, cam go để bảo vệ thủ đô. Mỗi một vòng bay trút hàng ngàn quả đạn đại bác 20 ly xuống đầu địch nơi ven đô. Ba vòng bay tác xạ đầu tiên của phi cơ vào các tọa độ đặt dàn trọng pháo và hỏa tiễn của địch. Việt cộng đã phải im bặt trong hơn nữa tiếng đồng hồ, kể từ khi con diều hâu xuất hiện và gầm thét ồn ào trên bầu trời Sàigòn. Chiến sĩ không quân đang hiện diện trong phi truờng Tân Sơn Nhứt tìm được một ít phấn khởi, ngơi ra khỏi hầm trú ẩn ngộp ngạt, tìm những giây phút thoải mái. Hàng triệu đôi mắt hướng về chiếc phi cơ cứu tinh đang bay lượn ở hướng đông, sắp sửa nhả đạn, tác xạ vòng bay thứ tự xuống đầu địch.


Phi hành đoàn đã chiến đấu không mỏi mệt, không đầu hàng, không bỏ chạy. Mỗi lúc chiếc phi cơ AC-119K lại tiến sâu vào trận đại dày đặc phòng không, trọng pháo của địch quân đang cố xâu xé Thủ đô Sàigòn.


Đối diện tử thần


Trung Úy Thành đã hạ phi cơ xuống thấp hơn các vòng bay trước, để đánh địch quân và điều chỉnh. Ông hy vọng cao độ 2.000 bộ, với tầm tác xạ và hiệu quả hơn. Nhưng cao độ này khá nguy hiểm cho một loại vận tải cơ bay chậm chạp, nó nằm trong tầm bắn trả của phòng không và hỏa tiễn tầm nhiệt của địch. Trung Úy Thành dự định sẽ rải 2 thùng đạn đại bác liên thanh 20 ly để phá hủy và dập tắt các nòng súng thuộc dàn đại pháo của Việt cộng, Những tọa độ ông vừa mới phát hiện được trong vòng bay đã qua.


Phi cơ của Trang Văn Thành chưa kịp tiến gần mục tiêu của địch. Nó đã bay và lọt vào ổ phòng không bí mật phía đông phi trường. Địch đã im lặng, giữ bí mật đặt dàn phòng không này trong quận Gò Vấp, một khu phố nghèo nàn phía đông, bên ngoài vòng đai phi trường Tân Sơn Nhất.


Tám nhân viên phi hành đoàn AC-119K hiện diện trên phi cơ cùng một cảm nhận những tiếng nổ rung chuyển không gian, xung quanh chiếc phi cơ của họ. Dàn phòng không của địch đã đồng loạt nả đạn lên không, tấn công chiếc AC-119K nổ rợp trời như pháo bông nổ giữa ban ngày. Đợt tấn công đầu tiên gồm bốn quả phòng không đã không gây thiệt hại nào cho phi cơ.


Mấy giây tử thần ngắn ngủi trôi qua. Phi hành đoàn lại cảm nhận một tiếng nổ đơn độc khác, ảnh hưởng trầm trọng trực tiếp đến phi cơ. Toàn thân chiếc máy bay rung chuyển dữ dội theo tiếng nổ. Họ đã kinh hoàng nhìn thấy lửa đỏ lẫn miếng đạn phòng không phóng ra, kèm tiếng nổ ấm và bịt kín từ trong lòng động cơ bên trái.


Không còn nghi ngờ gì nữa! Họ đã biết chắc chắn chiếc phi cơ đã bị trúng đạn phòng không SA7 của bọn việt cộng.


Trung Úy Trang Văn Thành bình tĩnh, một bản tánh chung của những người phi hành, họ đã được trui luyện lòng can đảm, ngay từ những giờ bay đầu tiên, đó là sự bình tĩnh, hành động chính xác và phải làm mọi cách để được đáp bình an và toàn mạng.


Thành dõng dạc trên máy điện thoại của phi hành đoàn. Ông công bố tình trạng phi cơ đang nguy ngập với lệnh đáp khẩn cấp.

– Phi hành đoàn, chú ý! Đây, Trưởng phi cơ! Phi cơ chúng ta đã bị trúng đạn phòng không. Tất cả nhân viên phi hành đoàn hãy bình tĩnh, ngồi vào ghế, buộc giây an toàn. Tôi đang làm thủ tục đáp khẩn cấp xuống phi trường Tân Sơn Nhất.


Vừa ra lệnh,Trung Úy Thành vội vã hạ mũ và nghiêng phi cơ về bên trái, theo hướng phi đạo Tân Sơn Nhất, đang nằm ở hướng 3 giờ của chiến phi cơ. Trong ý nghĩ của Trung úy Thành đã có sẵn một quyết định rõ rệt. Ông bình tĩnh dặn dò các nhân viên trong phòng lái.


– Bằng mọi giá chúng ta phải mang phi cơ ra khỏi vùng đông đúc dân cư của Quận Gò Vấp. Nếu phi cơ của chúng ta không lết kịp đến phi đạo. Tôi sẽ quyết định cho phi cơ làm crash ngay tại các cánh đồng vắng xung quanh phi trường.


Thượng đế đã cướp lấy cần lái phi cơ từ tay người phi công VNCH tài ba và dũng cảm Trang Văn Thành. Phi cơ vừa nghiêng bên trái, gia tăng sức ép của không khí đè nặng lên vết thương vốn đã trầm trọng nơi động cơ trái vừa bị phòng không SA7 xé nát, những mối giáp của 3 phần cánh: cánh trong, động cơ và cánh ngoài của phi cơ đã bị rạn nứt khi đạn nổ, không còn chịu nổi sức ép của không khí.


Cánh ngoài, bên trái của phi cơ đột nhiên gãy xấp lên không, lôi động cơ trái gãy đổ theo, rồi rã ra. Nó giựt mạnh những đường dây cáp điều khiển cánh lái nghiêng của phi cơ, làm đứt lìa, khiến cần lái phi cơ vuột khỏi tầm tay của viên phi công, rồi đập mạnh về phía trước bảng phi cụ.


Trung Úy Trang Văn Thành kinh hoàng cảm nhận chiếc phi cơ không còn trong tầm tay điều khiển an toàn của ông nữa. Đồng lúc, 2 chiếc bàn đạp điều khiển cánh lái đuôi phương hướng cũng đập mạnh về trước, khi những dây cáp điều khiển nối liền từ cánh lái đuôi đến bàn đạp cũng bị giựt đứt lìa và rời khỏi phi cơ.


Phi hành đoàn bàng hoàng cảm nhận cái chết cận kề. Người này loạng choạng chụp lấy dù cá nhân, người kia tháo gỡ dây an toàn, người nọ mò mẫm đến cửa thoát hiểm. Đôi tay Trung Úy Trang Văn Thành nhanh nhẹn chụp lấy lại cần lái, cố gắng điều khiển, đồng lúc chân ông chòi đạp trên cần điều khiển cánh lái phi cơ đều lỏng toát, không có một tác động nhẹ, khi toàn bộ hệ thống dây cáp điều khiển ba bộ cánh lái phi cơ đều đứt gọn. Trang Văn Thành rùng mình, toát mồ hôi lạnh, gào thét thất thanh trên máy liên lạc phi hành đoàn, Ông kinh hoàng, thúc giục đồng đội thoát thân.

– Tất cả nhảy dù ra khỏi phi cơ, mau lên, mau lên, mau lên…


Thân phi cơ bắt đầu nghiêng đổ hẳn về một bên. Các đồng hồ ngưng hoạt động, tốc độ phi cơ đứng hẳn giữa bầu trời và chuyển đổi sang trạng thái rơi tự do. Hệ thống điện bị cắt đứt. Tất cả bắt đầu im lặng theo sự rơi chao đảo trong 40 giây mặc niệm cuối cùng của sự chết.


Các động cơ đã hỏng vì sự rối loạn, tan rã của phi cơ. Tất cả kim đồng hồ dàn phi cụ, đồng loạt rớt xuống số 0. Cánh trái, thân nối liền đuôi phi cơ đã gãy đổ và rời khỏi phi cơ đang bay lơ lững trên không. Hệ thống điều khiển tê liệt. Phi hành đoàn kinh hoàng cảm nhận chiếc phi cơ của họ không còn là một chiếc máy bay thăng bằng, bay bổng trên không trung nữa. Đó là một khối sắt vô dụng đang rơi vùn vụt trên bầu trời Sàigòn.


… Chiều nao, thương ôi rụng cánh đại bàng …


Trung Úy Trang Văn Thành tuyệt vọng, buông xuôi và đầu hàng định mệnh. Tám người phi hành đoàn cùng cảm nhận trong hãi hùng với cái chết cận kề trong sức rơi của vùn vụt của phi cơ xuống mặt đất, trên bầu trời trong sáng Tân Sơn Nhứt của buổi sớm, ngày 29 tháng tư năm 1975. Cơ hội thoát hiểm của phi hành đoàn gần như chấm dứt khi họ đang ở vào trạng thái rơi tự do của hai vật thể riêng biệt: trọng lượng con người tách rời trọng lượng phi cơ, con người không còn là điểm tựa tên mặt phẳng của chiếc máy bay. Bàn tay của viên kỹ sư phi hành đã mấy lần đụng chạm đến cần khóa cửa thoát hiểm bên cạnh chiếc ghế ngồi của ông, được đặt dưới sàn trong lòng phòng lái phi cơ, bao lần nó đã vuột khỏi tầm tay vì sức rơi chao đảo, nghiêng ngã và lơ lửng trong lòng phi cơ.


Chiếc phi cơ nghiêng đổ hẳn về một phía, Những đôi mắt kinh hoàng của họ trừng trừng khiếp đảm nhìn xuống lòng đất cứng rắn hãi hùng, phút chốc nữa đây phi cơ của họ sẽ phải va chạm nổ vỡ tung. Những quả tim, bấn lọan hồi hộp theo cảm nhận của sự chết trong mấy mươi giây ngắn ngủi còn sót lại qua sức rơi chao đảo chóng mặt của phi cơ từ 2.000 bộ xuống mặt đất.


Người nhân viên phi hành chống chỏi tử thần dữ dội nhất để thoát khỏi bàn tay của thần chết, đó là Trung sĩ Chín, nhân viên vũ khí phi hành. Ông đang bám chặt ở cánh cửa hành khách bên phải của chiếc phi cơ, kể từ khi chiếc máy bay của họ bị trúng đạn phòng không.


Trung Sĩ Chín vẫn còn đủ bình tĩnh, bám chặt khung cửa, vật lộn với thời gian, chiến đấu với tử thần. Trung Sĩ Chín vất vả, quần thảo để tháo gỡ chiếc chốt pin khóa chặt dàn phóng trái sáng vào chân, chúng án ngữ kín mít ở cửa phòng hành khách, ông không thể nào rướn người ra khỏi phi cơ.


Đã mất 10 giây trong sức rơi vùn vụt, cực nhanh của phi cơ. Trung Sĩ Chín may mắn giật được chốt pin khóa dàn phóng trái sáng, nó rời khỏi chân dàn phóng rơi xuống mặt sàn phi cơ, để lộ một khoảng trống của khung cửa bao la. Đúng lúc chiếc phi cơ nghiêng đổ về bên phải, Trung Sĩ Chín dùng hết sức bình sinh dồn lên đôi chân cứu rỗi, nhanh như cắt, ông búng mạnh đôi chân vào thành phi cơ, để truợt chân người rơi ra khỏi đống thép vô dụng đang lao vùn vụt xuống mặt đất.


Trung Sĩ Chín rời phi cơ khi chiếc máy bay của ông đang rơi và cách mặt đất độ 600 bộ, chừng 200 mét. Trong 10 giây ngắn ngủi sau cùng còn sót lại cho sự sống. Chín đã lảo đảo trong không khí, đôi tay vẫn chới với, quờ quang tìm kiếm khóa giật để bung dù, chiếc dù đeo lủng lẳng chỉ một bên của thân người gây nhiều khó khăn.


Chiếc dù vừa bọc gió đúng lúc trung sĩ Chín cũng vừa rơi xuống mặt đất. Ông đã thoát nạn, nhưng đã bị chấn thương nhẹ nơi cột xương sống.


Đồng lúc một tiếng nổ rung chuyển trời đất, quả cầu lửa rựng lên, sức nóng bức của bom đạn hòa lẫn xăng cháy dữ dội, hắt vào người trong khoảng cách gần 100 thước, nơi Chín đã vừa rơi xuống từ phi cơ hư hỏng, vô phưong cứu chữa.


Chiếc phi cơ AC-119K danh hiệu Tinh Long 07 trong lúc bảo vệ Thủ Đô Sài Gòn và phi trường Tân Sơn Nhứt đã bị trúng hỏa tiển tầm nhiệt SA-7 và rơi xuống trong vòng đai, hướng Bắc của phi trường TSN. Phi hành đoàn đều hy sinh ngoại trừ một người may mắn nhảy dù thoát nạn là Tr/ Sĩ Chín (tự Chín Dơi).

***

Tuần lễ sau, Trung Sĩ Chín đã tìm đến nhà anh trưởng phi cơ Trung Úy Trang Văn Thành. Lúc đó chị Võ Thị Hòa là vợ anh Thành đã đi vắng. Chín đã kể lại những chi tiết trên chuyến bay cuối cùng của Không quân VNCH với chị Bùi Võ Thanh, chị ruột của chị Hòa. Trung úy Thành và 6 đồng đội khác đã không thoát khỏi phi cơ và đã tử trận theo con tàu AC119K, lúc 8 giờ sáng ngày 29/4/1975 tại Tân Sơn Nhất.


Trung Sĩ Chín xác nhận Trung Úy Thành đã đền nợ nước, chết theo phi cơ. Một hung tin mà gia đình chị Hòa đã biết mấy hôm trưóc do các nguồn tin từ những người bạn thân cùng đơn vị của anh Thành đã lén báo tin và xác nhận về cái chết anh dũng của anh Thành.


Trang Văn Thành đã tự điều động một phi hành đoàn còn đầy đủ tinh thần chiến đấu và tự nguyện hiến thân cho đất nước. Một phi hành đoàn duy nhất còn sót lại của Không Lực VNCH và của Quân Đội Miền Nam Việt Nam. Họ đã làm nên trang chiến sử oanh liệt cuối cùng trong giây phút kết thúc chiến tranh Việt Nam.


Vĩnh biệt các anh, những người anh hùng đã hiên ngang bay vào cõi không gian vô cùng, hy sinh thân mình trong cuộc chiến đấu bảo vệ Miền Nam Tự Do, Các anh đã ra đi nhưng Tổ Quốc Việt Nam sẽ mãi ghi ơn các anh và khí phách hiên ngang của các anh sẽ còn mãi là những gương sáng cho các thế hệ sau tiếp nối chí hùng anh.


Nguồn: (Sài Gòn trong tôi/ Nguyễn Phúc An Sơn t/h)

https://dongsongcu.wordpress.com/2020/04/19/tu-chien-tren-khong-phan-sai-gon/

Wordpress có thể bị chặn ở VN




VÀI NÉT VỀ MỘT ANH HÙNG: ĐẠI TÁ HỒ NGỌC CẨN 👈

Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn sinh ngày 24 tháng 3 năm 1938, tại Cần-Thơ. Thân phụ là một hạ sĩ quan trong quân đội Quốc Gia Việt Nam. Thủa nhỏ ông rất khỏe mạnh, không hề bị bệnh tật gì. Năm 10 tuổi ông bị bệnh quai bị, cả hai bên. Tính tình hiền hậu, giản dị, trầm tư, ít nói. Khi ông bắt đầu đi học (1945) thì chiến tranh Pháp-Việt bùng nổ, nên sự học bị gián đoạn. Mãi đến năm 1947 ông mới được đi học lại. Ông học không lấy gì làm giỏi cho lắm, thường thì chỉ đứng trung bình trong lớp. Năm 1951, phụ thân nộp đơn xin cho ông nhập học trường Thiếu Sinh Quân.

Thời điểm này, trên toàn lãnh thổ VN có 7 trường TSQ, phân phối như sau :

– Trường TSQ đệ nhất quân khu, ở Gia-Định.

– Trường TSQ đệ nhị quân khu ở Huế.

– Trường TSQ đệ tam quân khu ở Hà-Nội.

– Trường TSQ Móng-Cáy dành cho sắc dân Nùng.

– Trường TSQ đệ tứ quân khu ở Ban-Mê-Thuột.

– Trường TSQ Đà-Lạt của quân đội Pháp.

– Trường TSQ Đông-Dương của quân đội Pháp, ở Vũng-Tầu.

Hồ Ngọc Cẩn được thu nhận vào lớp nhì trường TSQ đệ nhất quân khu niên khóa 1951-1952. Trường này dạy theo chương trình Pháp. Ông đỗ tiểu học năm 1952. Cuối năm 1952, trường TSQ đệ nhất quân khu di chuyển từ Gia-Định về Mỹ-Tho.


Khi hiệp định Genève ký ngày 20-7-1954, thì ngày 19 tháng 8 năm 1954, trường TSQ đệ tam quân khu di chuyển từ Hà-Nội vào, sát nhập với trường TSQ đệ nhất quân khu ở Mỹ-Tho. Niên học 1954-1955, trường TSQ đệ nhất quân quân khu bắt đầu dạy chương trình Việt, và chỉ mở tới lớp đệ ngũ. Hồ Ngọc-Cẩn học lớp đệ lục A, giáo sư dạy Việt-Văn là ông Nguyễn Hữu-Hùng, từ Bắc di cư vào. Thực là một điều lạ, là giữa một số bạn học chương trình Việt từ Bắc vào, mà Hồ Ngọc-Cẩn lại tỏ ra xuất sắc về môn Việt-Văn. Trong năm học, có chín kỳ luận văn, thì bài của Cẩn được tuyển chọn là bài xuất sắc, đọc cho cả lớp nghe bảy kỳ. Nhưng bài của Cẩn chỉ đứng thứ nhì trong lớp mà thôi. Năm này Cẩn bắt đầu làm thơ. Thơ của Cẩn không có hùng khí, đa số những bài thơ này cực kỳ lãng mạn.

Ghi chú.

Ông Hùng bấy giờ mới đỗ tú tài. Trong thời gian dạy tại trường TSQ, ông tự học, đỗ cử nhân luật. Sau khi đỗ cử nhân luật, ông được bổ làm thẩm phán ở Tuy-Hòa, rồi làm bộ trưởng Lao-Động, rồi thẩm phán ở Phước-Tuy, rồi lại làm bộ trưởng Lao-Động. Sau 1975 ông sống tiềm ẩn ở Houston, bang Texas, Hoa-kỳ và từ trần năm 2000.


Hết năm học, Cẩn đã 17 tuổi. Theo học quy của trường TSQ, thì khi một học sinh mười bẩy tuổi, mà chưa học hết đệ ngũ, sẽ được gửi đi học chuyên môn. Còn như mười bẩy tuổi, mà học hết đệ ngũ, lại tỏ ra xuất sắc thì được giữ lại học đệ tứ, rồi... cho học lên cao nữa. Niên khóa 1955-1956, Hồ Ngọc-Cẩn được gửi lên học tại Liên-Trường Võ Khoa Thủ-Đức, về vũ khí. Sau ba tháng, Cẩn đậu chứng chỉ chuyên môn về vũ khí bậc nhất với hạng ưu. Sáu tháng sau đó, Cẩn lại đậu chứng chỉ bậc nhì, và bắt đầu ký đăng vào quân đội với cấp bậc binh nhì.


Quy chế dành cho các TSQ Việt-Nam thời ấy là quy chế dành cho các TSQ Pháp trong thời bình. Một học sinh ra trường, thì ba tháng đầu với cấp bậc binh nhì, ba tháng sau với cấp bậc hạ sĩ, ba tháng sau thăng hạ sĩ nhất, và ba tháng sau nữa thăng trung sĩ. Chín tháng sau Cẩn là trung sĩ huấn luyện viên về vũ khí.


Chiến tranh tại miền Nam VN tái phát vào năm 1960 tại một vài vùng. Sang năm 1961 thì lan rộng. Để giải quyết nhu cầu thiếu sĩ quan, bộ Quốc-Phòng cho mở các khóa sĩ quan đặc biệt. Được nhập học trường này, tất cả các hạ sĩ quan có trên năm năm công vụ, có bằng Trung-Học đệ nhất cấp. Với sự nâng đỡ đặc biệt của đại tướng Lê Văn-Tỵ Tổng-tham mưu trưởng, nguyên là một cựu TSQ, các hạ sĩ quan xuất thân từ trường TSQ, không cần phải hội đủ trình độ học vấn, cũng như thâm niên công vụ, đều được nhập học.


Nào ai ngờ, với sự nâng đỡ đặc biệt này, đã cung cấp cho đất nước VN không biết bao nhiêu sĩ quan gương mẫu, anh hùng trên chiến trường.


Hồ Ngọc-Cẩn tốt nghiệp khóa 2 sĩ quan đặc biệt với cấp bậc chuẩn úy. Dường như có một mật lệnh của Tổng-Thống Ngô Đình-Diệm hay đại tướng Lê Văn-Tỵ, các tân chuẩn úy, xuất thân từ trường TSQ, đều được đưa về phục vụ tại các binh chủng : Dù, Thủy-Quân Lục Chiến (TQLC) , Biệt-Động Quân (BĐQ), Quân-Báo, An-Ninh Quân Đội, và Lực-Lượng Đặc Biệt (LLĐB).


Sau khi ra trường, Hồ Ngọc-Cẩn theo học một khóa huấn luyện BĐQ, rồi thuyên chuyển về phục vụ tại khu 42 chiến thuật, với chức vụ khiêm tốn là trung đội trưởng. Lãnh thổ khu này gồm các tỉnh Cần-Thơ (Phong-Dinh), Chương-Thiện, Sóc-Trăng (Ba-Xuyên), Bặc-Liêu, Cà-Mâu (An-Xuyên). Về sau, vì tình hình chiến tranh thay đổi, quân cộng-sản từ du kích chiến, chuyển sang đánh cấp tiểu đoàn và trung đoàn, các đại đội BĐQ cũng phải kết hợp thành tiểu đoàn. Các đại đội BĐQ của khu 42 chiến thuật kết thành hai tiểu đoàn. Tiểu đoàn mang số 42, đơn vị mà Cẩn phục vụ, được tặng mỹ danh là tiểu đoàn Cọp ba đầu rằn. Tiểu đoàn mang số 44 được tặng mỹ danh là Cọp xám U-Minh Hạ.


Tôi đã gặp Hồ Ngọc-Cẩn bao giờ ? Tại đâu ? Câu truyện như thế này :


Năm 1966, khi đọc trong Đại-Nam chính biên liệt truyện, Đại-Nam nhất thống chí viết về « Ngụy Tây-sơn », có rất nhiều nghi vấn trong những trận đánh giữa vua Quang-Trung, với vua Gia-long tại rừng U-minh. Tôi nảy ra ý xuống vùng tận cùng của đất nước này tìm hiểu thêm. Bấy giờ đang xẩy ra vụ biến động miền Trung, « các thầy mang bàn thờ xuống đường » , chiến cuộc tại miền Tây cực kỳ sôi động, mẹ tôi, bà má má (vú nuôi) cực lực phản đối, vì đi như vậy dễ tiêu dao miền Cực-lạc lắm. Nhưng bố tôi, sau khi tính số Tử-vi của tôi, cụ lại khuyên tôi nên đi. Cụ nói « Con đi lần này sẽ có thêm nhiều bạn tốt, hơn nữa có dịp biết về vùng đồng lầy Cà-mau ». Tôi nhất quyết đi, bà má má tôi khóc khốn khổ, nhưng cũng không cản được cái tính phiêu lưu và mê sưu tầm của tôi.


Nhưng làm thế nào để có thể được vào tất cả những làng, những xã, mà không gặp trở ngại ? Làm sao có phương tiện di chuyển ? Chỉ một cú điện thoại, ông bố tôi đã kiếm cho tôi cái giấy giới thiệu của tờ tuần báo trung lập lớn nhất ở Paris. Bà má má kiếm cho tôi giấy giới thiệu của tờ nhật báo Hoa-văn tại Hương-Cảng. Thế là tôi bỗng trở thành ký giả bất đắc dĩ. Tôi đến bộ tư lệnh MACV xin giúp phương tiện làm phóng sự chiến trường ở vùng 4 chiến thuật. Tôi chỉ mong tìm hiểu lịch sử, chứ nào có chủ tâm làm ký giả !


Nhưng sau chuyến đi ấy, quá xúc động về cuộc chiến tranh thê thảm, tôi đã viết rất nhiều bài ký sự chiến trường, đăng trên một số báo ngoại quốc. Khởi đầu, uất hận trước cái chết của một cô bạn gái tên Đặng-thị Tuyết, mới hai mươi tuổi, làm nữ cán bộ Xây-Dựng Nông Thôn tại kinh Tắc-Vân, Cà-Mau. Tôi là thầy thuốc, mà cô bị trúng đạn, chết trên tay tôi. Tôi viết bài « Giang biên hoa lạc » gây xúc động mạnh cho độc giả Hương-Cảng và giới Hoa-Kiều tại VN. Sau tôi có dịch bài này sang tiếng Việt với tên là « Hoa rơi bên bờ kinh Tắc-Vân » . Tôi gửi bài này dự thi giải ký sự chiến trường của Cục Tâm-Lý Chiến năm 1967. Bài của tôi được giải nhì. Giải nhất về Trang-Châu cũng là một bài ký sự của y sĩ tiền tuyến. Một trong các giám khảo nói với tôi « Về nội dung, bài của cháu với Trang-Châu cùng nói lên niềm mơ ước của tuổi trẻ quên mình cho quê hương. Nhưng bài của Trang-Châu trung thực, còn bài của cháu thì ướt át quá, thê thảm quá, dù rằng đó là sự thực ».


Sau đây, tôi xin trích nguyên văn một đoạn tôi viết về Hồ Ngọc-Cẩn, trong bài « Ngũ Hổ U-Minh Thượng », kể chuyện năm tiểu đoàn trưởng nổi danh can đảm, có máu văn nghệ, nhất là phong lưu tiêu sái, tại chiến trường cực Nam năm 1966. Ngũ hổ là :


· Đai-úy Hồ Ngọc-Cẩn, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 1/33,


· Thiếu-tá Lưu Trọng-Kiệt tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 42 BĐQ.


· Thiếu-tá Nguyễn Văn-Huy tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 44 BĐQ,


· Thiếu-tá Lê Văn-Hưng tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 2/31.


· Đại-úy Vương Văn-Trổ tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 3/33.


Ghi chú:


Tôi xếp theo thứ tự abc. Trong năm người thì Kiệt tuẫn quốc năm 1967. Ngày 30 tháng 4 năm 1975, Hưng tự tử, Cẩn bị xử bắn. Còn Trổ , sau lên đại tá lĩnh tỉnh trưởng Kiên-Giang, hiện định cư tại Houston, bang Texas, Hoa-Kỳ. Còn Huy tôi không biết sau ra sao ?


Ngày19 tháng 4 năm 1966, tôi tới phi trường Vĩnh-Lợi bằng phi cơ Caribou của quân đội Hoa-Kỳ. Người đón tôi là thiếu tá Raider, của cố vấn đoàn 42. Tại bản doanh của cố vấn đoàn 42, đại tá cố vấn trưởng Hathaway không biết gì về chủ đích chuyến đi của tôi. Ông chỉ căn cứ vào giấy giới thiệu do hai chủ báo cấp, mà đoán rằng tôi là tên thầy thuốc trẻ, thích phiêu lưu, nên đi làm ký giả. Ông cho tôi biết tình hình địch rất chi tiết. Về tình hình quân đội VN tại năm tỉnh tận cùng của đất nước, ông nói :


– « Khu 42 chiến thuật, do sư đoàn 21, thuộc quân đoàn 4 trấn nhậm. Sư đoàn có ba trung đoàn mang số 31, 32, 33. Trung đoàn 31 đóng tại Chương-Thiện. Trung-đoàn 32 đóng tại Cà-Mau. Trung-đoàn 33 đóng tại Ba-Xuyên. Ngoài ra còn có hai tiểu đoàn Biệt-Động Quân mang số 42 và 44. Tiểu đoàn 42 đóng tại Bặc-Liêu, tiểu đoàn 44 đóng tại Ba-Xuyên ».


Ông ca tụng quân đội VN như sau :


« Lương bổng cho người lính VN, chỉ gọi là tạm đủ ăn. Doanh trại không có, trang bị thiếu thốn. Nhưng họ chiến đấu như đoàn sư tử. Tuy vậy vẫn có những điều đáng phàn nàn. Ông là thầy thuốc cầm bút, xin ông lướt qua những cái đó ».


Bốn hôm sau, có cuộc hành quân cấp sư đoàn. Tôi được gửi theo tiểu đoàn 42 Biệt-Động Quân. Tiểu đoàn trưởng là thiếu-tá Lưu Trọng-Kiệt, tiểu đoàn phó là trung-úy Hồ Ngọc-Cẩn. Cái tréo cẳng ngỗng là đối với cố vấn đoàn thì tôi là ký giả. Còn Kiệt với Cẩn lại tưởng tôi là bác sĩ tình nguyện ra mặt trận. Tiểu đoàn được đặt làm trừ bị tại phi trường Vĩnh-Lợi, từ bẩy giờ sáng, chuẩn bị nhảy trực thăng vận. Nếu khi nhảy, thì tiểu đoàn sẽ nhảy làm hai cánh. Cánh thứ nhất gồm đại đội 1, 2 do Hồ Ngọc-Cẩn chỉ huy. Cánh thứ nhì gồm đại đội 3 và đại đội chỉ huy, do thiếu tá Lưu Trọng-Kiệt chỉ huy. Tôi với Kiệt, Cẩn ngang ngang tuổi nhau. Tôi có máu giang hồ của người tập võ, coi trời bằng vung, lại cũng có học qua quân sự, nên chúng tôi thân cận nhau dễ dàng. Đại-úy cố vấn tiểu đoàn muốn tôi nhảy theo bộ chỉ huy. Anh hỏi tôi :


– Lần đầu tiên ra trận, « sơ » có sợ không ?


Tôi trả lời như những nhân vật trong lịch sử Việt-Nam :


– Tráng sĩ khi ra trận, không chết thì cũng bị thương. Nếu sợ chết thì đừng ra trận.


Cẩn hỏi tôi đã học quân sự chưa ? Tôi đáp :


– Kiến thức về quân sự của tôi chỉ bằng phó binh nhì thôi. Nhưng cũng biết bò, biết núp, biết nhảy, biết bắn. Đánh nhau bằng súng thì tôi dở ẹc, nhưng đánh cận chiến thì tôi có hạng, vì tôi là ông thầy dạy võ.


Thông dịch viên dịch lại cho binh sĩ nghe. Họ khen tôi :


– Ông bác sĩ này ngon thực !


Tôi hỏi Kiệt :


– Trong hai cánh, thì cánh nào có hy vọng được đánh nhau nhiều hơn ?


Kiệt chỉ Cẩn :


– Anh cứ nhảy theo thằng này, thì sẽ toại nguyện. Tha hồ mà hành nghề.


Tiểu đoàn cũng có sĩ quan trợ y. Anh biệt phái cho tôi một y tá cấp trung sĩ, với đầy đủ thuốc cấp cứu. Trên lưng tôi chỉ có bộ đồ giải phẫu dã chiến. Khoảng mười giờ thì có lệnh : Một đơn vị địa phương quân chạm địch tại Vĩnh-Châu. Địch là tiểu đoàn Cơ-động Sóc-Trăng. Tiểu đoàn phải nhảy trực thăng vận đánh vào hông địch. Địa điểm nhảy là một khu đồng lầy.


Sau khi Kiệt họp các sĩ quan, tóm lược vắn tắt nhiệm vụ, tình hình trong mười phút. Cẩn dẫn tôi ra phi đạo. Hai đại đội đã lên trực thăng từ bao giờ. Chúng tôi cùng leo lên một trực thăng. Hai mươi lăm chiếc trực thăng cùng cất cánh. Trực thăng bay khoảng bẩy phút, thì Cẩn chỉ vào khu làng mạc trước mặt :


– Kìa, chỗ chúng mình đáp kìa.


Trực thăng hạ cánh. Thoáng một cái hơn hai trăm người từ trực thăng lao ra. Một cảnh tượng, mà không bao giờ tôi quên : Những người lính dàn ra thành một hàng ngang. Họ núp vào cái những cái bờ ruộng, mô đất, tay thủ súng, mắt đăm đăm nhìn về trước. Đó là một làng, lưa thưa mấy ngôi nhà tranh, ẩn hiện dưới những cây dừa xanh tươi. Mặc dù súng trong làng bắn ra, nhưng những người lính ấy, vẫn chưa bắn trả. Tôi đưa mắt nhìn một lượt, các sĩ quan, người thì nằm, người thì quỳ, cũng có người đứng.


Từ lúc nhảy xuống, Cẩn không hề nằm, quỳ, mà đứng quan sát trận mình, quan sát trận địch. Một là điếc không sợ sấm, hai là tự tin vào số tử-vi của mình thọ, tôi cũng đứng.


Hơn mười phút sau, cánh quân thứ nhì đã nhảy xuống trận địa. Trận vừa dàn xong, thì sĩ quan đề lô xin pháo binh nã vào những chỗ có ổ moọc-chê, trung liên, đại liên trong làng. Một lệnh ban ra, hơn bốn trăm con cọp dàn hàng ngang, vừa bắn, vừa xung phong vào trong làng. Trong khi súng trong làng bắn ra, đạn cầy các ụ đất, trúng vào ruộng nước, bụi, nước bắn tung.


Hàng quân tới bờ ruộng cuối cùng, cách bìa làng không đầy năm mươi thước, thì súng nhỏ từ trong mới nổ. Cả hàng quân đều nằm dài ra sau cái bờ ruộng. Giữa lúc đó, sĩ quan pháo binh trúng đạn lật ngươc. Tôi chạy lại cấp cứu, thì không kịp, viên đạn xuyên qua sọ anh. Thế là pháo binh vô hiệu. Trực thăng võ trang được gọi đến. Cố vấn Mỹ báo về trung tâm hành quân. Cố vấn tại trung tâm hành quân ra lệnh cho phi công trực thăng nã xuống địa điểm có địch quân.


Tôi đứng cạnh Cẩn tại một mô đất. Cẩn không thực tiếp cầm máy chỉ huy, mà ra lệnh cho các đại đội, trung đội qua hiệu thính viên.


Sau khi trực thăng võ trang nã ba loạt rocket, đại liên, thì lệnh xung phong truyền ra. Cả tiểu đoàn reo lên như sóng biển, rồi người người rời chỗ nằm lao vào làng. Không đầy mười phút sau, tiếng súng im hẳn.


Bây giờ là lúc tôi hành nghề. Những binh sĩ, tù binh bị thương nặng được băng bó, cầm máu, rồi trực thăng tải về quân y viện. Còn như bị thương nhẹ thì được điều trị tại chỗ. Tôi ngạc nhiên vô cùng, khi thấy những binh sĩ bị thương khá nặng, nghe tôi nói rằng : Nếu họ muốn, tôi có thể gắp đạn, may các vết thương đó cho họ, mà không phải về quân y viện. Họ từ chối đi quân y viện, xin ở lại để tôi giúp họ. Tôi cùng sĩ quan trợ y, bốn y tá làm việc trong hơn giờ mới xong. Tôi hỏi Cẩn :


– Tôi tưởng, thương binh được về quân y viện chữa trị, nghỉ ngơi, thì là điều họ mong muốn mới phải. Tại sao họ muốn ở lại ?


– Bọn cọp nhà này vẫn vậy. Chúng tôi sống với nhau, kề cận cái chết với nhau, thì xa nhau là điều buồn khổ vô cùng. Đấy chúng nó bị thương như vậy đấy, lát nữa anh sẽ thấy chúng chống gậy đi chơi nhông nhông ngoài phố, coi như bị kiến cắn.


Tôi đi một vòng thăm trận địa. Hơn hai trăm xác chết, mặc áo bà ba đen, quần đùi. Những xác chết đó, gương mặt còn non choẹt, đa số tuổi khoảng 15 đến 20, cái thì nằm vắt vẻo trên bờ kinh, cái thì bị cháy đen, cái thì mất đầu. Cũng có cái nằm chết trong hầm. Không biết, trong khi họ phơi xác ở đây, thì cha mẹ, anh em, vợ con họ có biết không ?


Sau trận đó thì Cẩn được thăng cấp đại úy. Cuối năm 1966, Cẩn từ biệt tiểu đoàn 42 BĐQ đi làm tiểu đoàn trưởng, tiểu đoàn 1 trung đoàn 33 (Sư đoàn 21). Việc đầu tiên của Cẩn khi làm tiểu đoàn trưởng là xin sư đoàn cho tất cả các sĩ quan, hạ sĩ quan xuất thân trường TSQ về chiến đấu cùng với mình. Cẩn đã được thỏa mãn một phần yêu cầu. Tôi hỏi Cẩn :


– Anh đem các cựu TSQ về, với mục đích gì ?


– Một là để dễ sai. Tất cả bọn cựu TSQ này đều ra trường sau tôi. Chúng là đàn em, dù tôi không phải là cấp trên của chúng nó, mà chúng no lộn xộn, tôi vẫn hèo vào đít chúng nó được. Nay tôi muốn chúng về với tôi, để tôi có thể dạy dỗ chúng nó những gì mà tại quân trường không dạy. Hai là, truyền thống của tôi khi ra trận là chết thì chết chứ không lùi, vì vậy cần phải có một số người giống mình, thì đánh nhau mới đã. Bọn cựu TSQ đều như tôi cả.


Suốt năm 1967, Cẩn với tiểu đoàn 1/33 tung hoành trên khắp lãnh thổ năm tỉnh Hậu-Giang, khi Đại-Ngãi, khi Tắc-Vân, khi Kiên-Hưng, khi Thác-Lác, khi Cờ-Đỏ. Sau trận tổng công kích Mậu-Thân, Cẩn được thăng thiếu tá. Năm 1968, Cẩn là người có nhiều huy chương nhất quân đội. Thời gian này tôi bắt đầu viết lịch sử tiểu thuyết, nên tôi đọc rất kỹ Lục-Thao, Tam-Lược, Tôn-Ngô binh pháp, cùng binh pháp của các danh tướng Đức, Pháp, nhất là của các tướng Hồng-Quân. Tôi dùng kiến thức quân sự trong sách vở để đánh giá những trận đánh của Cẩn từ 1966. Tôi bật ngửa ra rằng, Cẩn không hề đọc, cũng không hề được học tại trường sĩ quan, những binh pháp đó. Mà sao từ cung cách chỉ huy, cung cách hành xử với cấp dưới, cấp trên, nhất là những trận đánh của Cẩn bàng bạc xuất hiện như những lý thuyết trong thư tịch cổ ?


Năm 1970, Cẩn thăng trung tá, rời tiểu đoan 1/33 đi làm trung đoàn trưởng trung đoàn 15 thuộc sư đoàn 9. Năm 1972, Cẩn được lệnh mang trung đoàn 15 từ miền Tây lên giải phóng An-Lộc. Cuối năm 1973, Cẩn được trở về chiến trường sình lầy với chức vụ tỉnh trưởng, kiêm tiểu khu trưởng Chương-Thiện. Lần cuối cùng tôi gặp Cẩn vào mùa hè năm 1974 tại Chương-Thiện. Tôi hỏi Cẩn :


– Anh từng là trung đoàn trưởng, hiện làm tỉnh trưởng. Anh có nghĩ rằng sau này sẽ làm sư đoàn trưởng không ?


– Tôi lặn lội suốt mười bốn năm qua, gối chưa mỏi, nhưng kiến thức có hạn. Được chỉ huy trung đoàn là cao rồi. Mình phải biết liêm sỉ chứ ? Coi sư đoàn sao được.


– Thế anh nghĩ sau này anh sẽ làm gì ?


– Làm tỉnh trưởng bất quá một hai năm nữa rồi tôi phải ra đi, cho đàn em họ có chỗ tiến thân. Bấy giờ tôi xin về coi trường TSQ, hoặc coi các lớp huấn luyện đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng, đem những kinh nghiệm thu nhặt được trong mười mấy năm qua dạy đàn em. Tôi sẽ thuật trước sau hơn ba trăm trận đánh, mà tôi trải qua, nhờ anh viết lại. Bộ sách đó, anh nghĩ nên đặt tên là gì ?


– « Cẩm nang của các đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng trong chiến tranh chống du kích taị vùng đồng lầy ». Nhưng liệu bộ Quốc-phòng có cho phép in hay không ?


– Không cho in thì mình cũng cứ thuật, rồi đem giảng dạy, ai cấm được ?


Đây là cuộc gặp gỡ cuối cùng của tôi với Cẩn.


Sau khi miền Nam mất, tôi không được tin tức của Cẩn. Mãi năm 1976, tôi được tin : Ngày 30 tháng 4 năm 1975, khi tên tướng mặt bánh đúc Dương Văn-Minh ra lệnh đầu hàng. Cẩn chống lại lệnh đó. Các đơn vị Cộng-quân tiến vào tiếp thu tiểu khu Chương-Thiện, thì gặp sức kháng cự, chết rất nhiều. Cẩn bị bắt, rồi bị đem ra xử tử.


Ghi chú:


Tại Sài-Gòn 9 giờ bẩy phút, tiếng súng kháng cự tại các đơn vị dù chấm dứt. Tại bộ chỉ huy tiểu khu Chương-Thiện kéo dài tới 15 giờ. Trong khi đó, tiếng súng kháng cự của các Thiếu-Sinh-Quân còn kéo dài tới 19 giờ bốn mươi lăm phút tại Vũng-Tầu. Nếu tôi không lầm thì các TSQVN là những người chiến đấu cuối cùng của miền Nam.


Cuộc xử Cẩn do hai nhân chứng thuật lại:


Một là Trung-tá Bùi Văn Địch (Hiện sống ở Berlin), xuất thân trường Thiếu-Sinh-Quân Hà-Nội, sau di vào Mỹ-Tho. Trung-tá Địch đã sống với Cẩn 2 năm tại trường Thiếu-Sinh-Quân Mỹ-Tho. Thời gian 1972, cả hai từng cùng phục vụ tại sư đoàn 9 bộ binh.


Hai là phu nhân của Trung-tá bác-sĩ Jean Marc Bodoret, nhũ danh Vũ-Thị Quỳnh-Chi (Hiện sống ở Marseille), em ruột của cựu Thiếu-sinh-quân Vũ Tiến Quang. Quang là người nạp đạn cho Cẩn xử dụng khẩu đại liên 30, bắn đến viên đạn cuối cùng trong công sự chiến đấu tiểu khu Chương-Thiện. (Xin xem bài Cái bóng của Hoài-văn vương Trần Quốc Toản trong sách này). Bà Bodoret chứng kiến tận mắt hai cuộc xử án Cẩn.


Cuộc xử án như sau:


Ngay khi Cẩn bị bắt, người ta để Cẩn lên một chiếc xe mui trần, chở đi khắp thành phố Chương-Thiện cho dân chúng xem chiến lợi phẩm. Ngồi trên xe, Cẩn thản nhiên mỉm cười, vẫy tay chào dân chúng. Cái gọi là tòa án nhân dân được lập ngay trước tòa hành chánh. Sau khi quan tòa kết tội Cẩn bằng những từ ngữ hiếm hoi thấy trong các đạo luật trên thế giới. Người ta kêu gọi dân chúng, ai là nạn nhân của Cẩn thì đứng lên tố cáo, rồi muốn đánh, muốn chửi tùy thích. Nhưng chỉ có vài cán bộ nội thành tố cáo Cẩn là ác ôn có nợ máu. Dân chúng không có ai lên tiếng cả. Người ta hỏi : Những ai đồng ý xử tử Cẩn thì dơ tay lên ! Lại cũng chẳng có ai dơ tay. Thế là cuộc xử án ngừng lại.


Rồi, ba tuần sau, cuộc xử án Cẩn lại diễn ra ở sân vận động thể thao Cần-Thơ. Lần này người ta chuẩn bị kỹ hơn, người ta cho tụi bò-vàng xen lẫn với dân chúng. Cũng bản cũ soạn lại, nhưng người ta khôn khéo hơn, người ta không hỏi xem Cẩn đã nợ máu với ai, thì hãy ra mà xỉ vả, đánh đập. Người ta chỉ hỏi : Ai đồng ý xử tử Cẩn thì dơ tay. Bò vàng dơ tay, một số dân chúng dơ tay. Số đông vẫn cứng đầu, không đơ tay.


Người ta hỏi Cẩn có nhận những tội mà tòa án nêu ra không ? Cẩn cười nhạt :


« Nếu tôi thắng trong cuộc chiến, tôi sẽ không kết án các anh như các anh kết án tôi. Tôi cũng không làm nhục các anh như các anh làm nhục tôi. Tôi cũng không hỏi các anh câu mà các anh hỏi tôi. Tôi chiến đấu cho tự do của người dân. Tôi có công mà không có tội. Không ai có quyền kết tội tôi. Lịch sử sẽ phê phán đoán các anh là giặc đỏ hay tôi là ngụy. Các anh muốn giết tôi, cứ giết đi. Xin đừng bịt mắt ».


Rồi Cẩn hô:


« Đả đảo cộng-sản. Việt-Nam muôn năm »


Sau khi Cẩn bị băn chết, dân chúng hiện diện khóc như mưa như gió. Trời tháng năm, đang nắng chói chang, tự nhiên sấm chớp nổ rung động không gian, rồi một trận mưa như trút xuống.


Nắng mưa là hiện tượng bình thường của trời đất. Nhưng dân chúng Cần-Thơ thì cho rằng, trời khóc thương cho người anh hùng, gặp cơn sóng gió của đất nước.


Khi tôi gặp Cẩn, thì tôi chưa khởi công viết lịch sử tiểu thuyết. Thành ra cuộc đời Cẩn, cuộc đời các cựu TSQ quanh Cẩn, in vào tâm não tôi rất sâu, rất đẹp. Vì vậy sang năm 1968, khi bắt đầu viết, thì bao giờ tôi cũng khơỉ đầu bằng thời thơ ấu của những nhân vật chính. Trong bộ nào, cũng có những thiếu niên, khi ra trận chỉ tiến lên hoặc chết, chứ không lùi.


Có rất nhiều người đặt câu hỏi : Giữa tôi và Cẩn như hai thái cực . Cẩn chỉ học đến đệ lục, tôi được học ở nhà, ở trường đến trình độ cao nhất. Cẩn là người Nam, tôi là người Bắc. Cẩn theo đạo Chúa, tôi là cư sĩ Phật-giáo. Tôi thì sống trong sách vở, hay đi trên mây, Cẩn thì lăn lộn với thực tế. Tôi không biết uống rượu, Cẩn thì nổi danh tửu lượng cao nhất sư đoàn 21 bộ binh. Tôi thấy người đẹp là chân tay run lẩy bẩy, Cẩn thì rửng rưng. Thế mà khi gặp nhau, chúng tôi thân với nhau ngay. Thân đến độ giãi bầy cho nhau tất cả những tâm sự thầm kín nhất, không một người thứ nhì biết được. Tại sao ? Cho đến nay, tôi mới trả lời được rằng : Cẩn cũng như những người quanh Cẩn, là những hình bóng thực, rất quen thuộc mà trước kia tôi chỉ thấy trong lịch sử. Nay được gặp trong thực tế.


Hai mươi mốt năm qua, đúng mười hai giờ trưa, ngày 30 tháng tư, dù ở bất cứ nơi nào, tôi cũng mua bó hoa, đèn cầy, vào nhà thờ đốt nến, đặt hoa dưới tượng đức mẹ, và cầu xin cho linh hồn Cẩn được an lành trong vòng tay người.


Tôi lược thuật về cuộc đời Cẩn mà không phê bình, vì Cẩn là bạn thân của tôi. Vả tôi không đủ ngôn từ đẹp đẽ để tặng Cẩn.


Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ

Thứ Tư, 28 Tháng 1 Năm 2009 09:04




ĐÔI GIÀY CÒN CÓ SỐ - THÁNG TƯ ĐEN.  AET1729👈

Chuyện đã 45 năm giờ mới kể, quần nhau từ sáng sớm giờ 2 khẩu 6 nòng hết đạn, rockets cũng chẳng còn trái nào, nhận lệnh đổ xăng để bay về Cần Thơ quýnh nữa ..

Phía Nhà Bè khói lửa um trời không còn chỗ reload, đèn đỏ báo gần cạn xăng, đáp đại xuống cái đồn Địa Phương Quân gần cửa Đại ở Gò Công rồi tính tiếp, 

Chưa kiếm được cái gì ăn, mở radio lên để nhận lệnh mới. Con Bà Nó,  tiếng mayday mayday om trời trên tần số, tới lúc đó mình mới biết hạm đội 7 đang hướng dẫn máy bay VN bay ra hạm đội ...

Bay ra biển khoảng 5, 10 phút thì đèn xăng bắt đầu chớp chớp, may quá một chiếc workship nhỏ của HĐ7 xuất hiện, vừa chạm skids xuống tàu thì trên tầng số thằng bạn la trên tàu tao sắp hết xăng mà đang chở 26 người đàn bà con nít mày bay lên để tao đáp xuống .. 

Mình để 2 gunners và copilot xuống còn mình bay lên một mình để ... làm air shows, lòng buồn muốn chết lắm rồi, hồi nảy khi nhìn lại đất liền thấy lá cờ vàng vẫn còn thấp thoáng trong làn khói xa xa, mình khóc từ trong bụng khóc ra, cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi ... thoáng trong đầu vẫn nhớ trường bay có dạy forced landing trên nước phải hover 3ft - cúp máy - mở góc cánh quạt tối đa chờ vận tốc rpm thấp nhất (giảm thiểu lực va chạm) - vặt cánh quạt qua  phải (tránh cánh quạt chém cockpit) - chờ thân máy bay chìm xuống rồi mới nhảy ra cho khỏi bị chết luộc vì ống máy phản lực đun sôi vùng nước xung quanh. ..

Thôi chuyện an toàn trường bay để qua bên, đây là chuyến bay cuối của mình mà, lòng đã muốn chết, nhưng trước khi chết cũng ham vui cái đã, mình air shows đủ kiểu la đà lạng qua lạng lại skids chạm nước mà main rotors suýt chạm nước luôn mấy thằng bạn về sau khen quá xá nói mầy bay đẹp éo tả được chúi xuống múc lên skids toé sóng mà tail rotor gần như chạm nước luôn .. đúng là chịu chơi ngu, điếc không sợ súng hehe. .

Mở seat belt, rà trên ngọn sóng, trim on, kéo nhẹ cyclic về sau con tàu flare up khoảng 30 feet mình rời ghế nhảy qua cửa khi được nửa người vói tay hất cyclic qua phía bên kia, mọi động tác rất chính xác chiếc máy bay tiếp tục flare tới và mình rơi xuống nước gảy mấy cái xương sườn .. chả ai chết ai, ihihi ..

Trong quân sử về chiếc trực thăng có chuyện một người bay một người nhảy nhưng chưa có ai nhảy ra từ ghế lái, còn vừa bay vừa nhảy chắc chỉ có một mình tui, hay không bằng hên, đúng là đôi giày còn có số hehe 😉 

(Seattle 2020) facebook.


Đọc thêm để biết Cuộc đời bầy nhầy của Chú Sáu qua comments của những người trong cuộc ?


Tung Tranle

Đọc hết cuốn “trên vòm trời lửa đỏ” mới hiểu chú 6 nói


Phong Già

Anh Phước Đa number one.

Nhớ lại có lần làm Copilot bay với anh. Biệt phái Hải Quân, Bộ chỉ huy vùng 3 Duyên Hải ở Cát Lở , Vũng Tàu. Anh làm một cái “vertical landing” vô tiền khoáng hậu vì cả hợp đoàn đáp trước nên không còn chỗ, đi sau nên anh thấy còn một chỗ, nhưng xung quanh toàn là tàu, một chỗ nhỏ vừa chiếc Trực Thăng, anh “hover” thật cao ngay trên “chỗ đáp” và từ từ xuống thấp , thật tài tình. Xuống đất mới thấy mấy chục ông Hải Quân sắp hàng đứng coi và vỗ tay vang vội.

Buổi chiều khi trở về, cũng mấy chục ông Hải Quân đứng sẵn để coi chiếc Trực Thăng nầy cất cánh, cũng như lúc đáp, kỳ nầy anh Phước làm cái “vertical take-off”, từ dưới đất chiếc Trực Thăng lên thẳng thật cao và trực chỉ Biên Hoà.

Cùng một Phi Đoàn, nhưng tôi ít có dịp bay chung với anh Phước vì khác Phi Đội nhưng không quên kỷ niệm này.

Hồi biệt phái cho Hải Quân thiếu chỗ đáp, anh Phước Đa đáp kiểu “thảy lổ”.

Lần cuối cùng của đời bay bổng, vì nhường chỗ đáp cho chiếc Trực Thăng khác chở đầy đàn bà và trẻ con, Trung Uý Nguyễn Đa Phước đã cho Trực Thăng lao xuống biển, sau khi nhảy ra khỏi phòng lái.


Phong Già

Chu Sau Co Ba Anh Phước có liên lạc được với anh Nghiêm Xuân Quang không? Lâu lắm không nghe tới ảnh.

Phong Con 251


Chu Sau Co Ba

Phong Già có ý tìm hoài nhưng bặt tăm, ae nào gặp cho P nhắn rất muốn gặp him ôn lại chuyện xưa nghen.  🙂


PDien Truong

Chu Sau Co Ba Phạm Mạnh Nam biết đó C6C3, nhưng hắn... "cà dzựt" không l/l. 😏


Chu Sau Co Ba

Phong Già ah, Phong Con mà lại lấy nick Phong Già làm tui lộn với Phong kia, nhớ Phong con rồi hồi họp mặt PĐ251, Phong con không biết hát hay như Phong kia nhưng đẹp trai và “phong” hơn Phong kia ihihi 😉


Phong Già

Chu Sau Co Ba Hồi xưa, Phong con là cặp bài trùng với anh Linh con (Đỗ thiện Linh) còn Phong kia thì gọi là Phong cha ( không biết ai đặt, có lẻ anh Dõng?).

45 năm rồi anh Phước, Phong con ngày xưa nay già chát rồi anh ơi. Tên Phong con không còn thích hợp nửa.


Chu Sau Co Ba

Phong Già tui giờ lúc nhớ lúc quên lúc nhìn cuộc đời mờ mờ nhân ảnh  😉 ihihi


Phong Già

Chu Sau Co Ba Bởi vậy mình mới là con người hén anh Phước , già rồi thì quên đi những gì không đáng nhớ, chớ nhớ hoài cũng chẳng đi đến đâu. Đó là luật tạo hoá mà. Vây chớ cũng có lần phụ sửa chiếc Vespa của anh. Sau đó chiếc xe nằm luôn.


Chu Sau Co Ba

Phong Già giờ nhắc mình mới nhớ mình cũng có chiếc Vespa đời một ngàn chín trăm lâu lắm hehe  😉


Phong Già

Chu Sau Co Ba Anh Phước Đa số một.


Son Thai

Tui đọc anh Vĩnh Hiếu TVTLĐ (phi đoàn 215) đọc tự truyện của anh Trường Sơn Lê Xuân Nhi (phi đoàn quan sát) đọc vùng trời biên trấn của đại bàng Trần Ngọc Nguyên Vũ (thiên Kích khu trục AD6 )lâu rồi nhưng những truyện kia (tôi thấy và tôi nghĩ) nói lên trong sự gò bó thuần túy chuyên nghiệp của người viết văn viết sách,hôm nay đọc C6C3 cách hành văn dí dỏm thật tình không màu mè coi trời bằng vung thì quả thật đôi giày có số tui thân thương mà nghĩ số C6C3 là số.....viết sách....mong lắm thay

Cầu chúc anh chị mãi mãi bình an và hạnh phúc 🙂 


Chu Sau Co Ba

Đôi giày còn có số, Ai ở trong nghề cũng hiều, khi nhảy ra từ ghế lái mà không quẹt cái cyclic bởi cái ống quần hoặc cái mũi giầy thì là chuyện không tưởng, chỉ có bà đở thôi, đúng là hay không bằng hên, mình nói rất thật ihihi 😉


Đáp Huỳnh

Chu Sau Co Ba trong cái Rủi ,vẩn có cái May...trong cái May vẩn khép cầm sự rủi....Rủi Rủi May May ẩn trong Âm Đức mà Thành anh ạ


Son Thai

Chu Sau Co Ba

Em nghĩ anh cầm cái cyclic hay nè, anh cầm xẻng xào đồ chay từ thiện nghề nè, anh cầm bút cũng rất hay giống kim dung nè, còn nhiều cái anh cầm hay lắm nhưng thư bất tận ngôn ...đúng là người có số cầm anh há😜


Roger Nguyen

Son Thai TĐ là xạ thủ cùng phi đội với C6C3 mà củng là dân ba gai bị đì nên được bay gunships với C6C3 rất nhiều, hôm nào vô PĐ check Phi Vụ bay với anh ấy là tui khoái vì hy vọng chiều còn có cơ hội về SG dẩn em đi coi phim và ra bờ sông Biên Hoà ăn s… See more


Chu Sau Co Ba

Roger Nguyen công cũng có mà tội cũng nhiều, coi như huề, không khai tầm bậy nghen  😉 Ihihi


Son Thai

Chu Sau Co Ba

Hỏng sao đâu C6c3 có bà độ mà 😜


Quang Caumuoi

Chu Sau Co Ba đàn em chôm đoản khúc tuyệt truyện này nhen 😁...

Văn Võ Song Toàn


Chu Sau Co Ba

Son Thai đúng rồi tui có số “cầm”, mướn nhà kế quán bia ôm trước QĐ3 BH chung với ae Nghiêm Xuân Quang/Vinh, cùng xạ thủ Quản Chĩa , Tuy Sữa .. đầu tháng xúi mấy cô bia ôm đóng quán vui suốt sáng, cuối tháng đem đủ thứ đi “cầm” cầm luôn CC Quân Nhân cả thẻ mang súng luôn ... ehhh


Chu Sau Co Ba

Quang Caumuoi Okay, hỗm rày you đâu mất lo quá, Tuấn A5 cỏn tung tin you bị Cô Vy bắt cóc ..


Quang Caumuoi

Chu Sau Co Ba Đàn Anh 😁..em bị fb nhét lựu đạn thôi.

Anh Chị giữ gìn sức khỏe 😘


PDien Truong

Vùng Tánh Linh, Võ Đắc chắc tụi Vi Ci sợ chiếc gunship của C6C3... vì đánh rocket hay minigun đều thích hover...



Chu Sau Co Ba

Chuyện đời thật chẵng ai ngờ vùng đất mình “hover” giờ thành Thánh Địa Tà Pao cũng như Cha Diễn lại thành Cha. Tui nghĩ làm Cha cũng có số àh 😉



PDien Truong

Từ Thánh Địa Tà Pao nhìn ra nè C6C3. Thấy quen quen với hình 1 không?

No photo description available.


Chu Sau Co Ba

PDien Truong Chắc khi nào gặp lại bên VN mình chơi chuyến thăm Thánh Địa Tà Pao nghe Cha, bằng Honda 67 cho nó bạo  😉


Hoang L. Doan

Anh viết hay quá. Phải chi em biết ông pilot helicopter nào kéo vô tám 🙂


Mai Ngọc Bảo

Cám ơn các anh.


Eva Kuusinen-Corriveau

You’ve had an incredible journey! Glad you are here to be a wonderful grandfather for Theo. When he is older he will understand your bravery and heroic deeds.


Ty Nguyen

Wow!! Need to write down for children and grandchildren to know and be proud .👏😃


Binh Bagac

Respect


Le Duong

Đôi giày cũng có số, ...và

Cây quạt của hiền triết Aristotle.

Một hôm nhà hiền triết cổ Hy lạp Aristotle đang ngồi trước sân nhà hóng mát thì được bà vợ đưa cho cây quạt giấy , ...vì trời oi bức ông phe phẩy cây quạt cho mát trong khi bà khuất bóng vào nhà trong.

Ông hiếu kỳ ý muốn tự lấy số cây quạt hy hữu của vợ xem nó thọ được bao lâu.

Sau hơn một lần, ông thấy nó không thọ hơn ngày hôm nay.

Chuyện có thế thôi tưởng thế là hết.

Mấy tiếng sau, ông nghe tiếng bà vợ gắt gờm về vườn rau khô héo, thiếu nước ?, rồi bà xuất hiện với xô nước đầy trên tay.

Khi thấy ông vẫn vô tư, phe phảy cây quạt chẳng cần để ý gì bà nói, thì cả xô nước văng lên tay ông và chiếc quạt giấy

Một người qua đường nhìn ông ngạc nhiên

Ông thản nhiên cười và rằng " trời sấm xét thời đổ mưa "

Chiếc quạt giấy đã nát theo xô nước trôi. !


Nháy Cô Cô

Hổng ngờ là ông xã Chu Sau Co Ba có số Bà độ nhe!😍😍. So proud of you my dear!


Chu Sau Co Ba

Thật ra tui còn có số bị Bà đì nữa. Đời giang hồ tui ít sợ ai chỉ sợ vợ chút chút thôi àh.  😉


Kim Pham

Chu Sau Co Ba nho bi ba di ma chu con Facebook den ngay nay ne 😉 cong cua "ba" nhieu lam day. Chuc co chu nhieu suc khoe.


Son Thai

Nháy Cô Cô

Me too i am so proud of him ...you’re the luckiest women in the world 😜


Roger Nguyen

Chu Sau Co Ba làm trai sợ vợ là khôn

Nếu không sợ vợ đem chôn lâu rồi!

Kkk


Chu Sau Co Ba

Kim Dinh Kinh nghiệm cuộc đời giờ đã muộn, con gái Bắc Kỳ ngộ lắm mới gặp nhau tưởng nàng ngoan hiền ngây thơ dễ dụ, lấy về rồi thì biết liền hàh  😉


Thanh Nhan Duong

Ai biểu anh thích ngâm thơ Nguyễn Tất Nhiên:

Em nhớ giữ tính tình con gái Bắc

Nhớ điêu ngoa nhưng giả bộ ngoan hiền… See more


Chu Sau Co Ba

Thanh Nhan Duong NTNhiên còn hên, chớ đụng em gái miền trung thì him hết làm thơ luôn tại vì em mặn chát và chua lè àh  😉


Thanh Nhan Duong

Chu Sau Co Ba , nguy rồi anh tui. Anh không biết con gái miền Trung dịu dàng , nết na, thùy mị, ích phu vượng tử sao. ( vụ này không tin tập trung tất cả con cái chị em các bà họ PHẠM lại hỏi là biết liền. Chắc nhất là hỏi chị dâu "bắc kỳ nho nhỏ" của tụi em xác minh là tính xác thực cao nhất). Tặng anh bài này nghe suy tư nè.

https://youtu.be/K1OCunPL85w

Thương Về Miền Trung - Quang Linh [Official]

YOUTUBE.COM

Thương Về Miền Trung - Quang Linh [Official]

Thương Về Miền Trung - Quang Linh [Official]


Dennis Le

Thanh Nhan Duong .

Kinh nghiệm nhe.

Thuộc lòng bài thơ thì phải biết!!!!!!!!

Thú đau thương!


Cuong Au

Anh hay quá


Tía Của Xù-Kè

Hat off!


Ngocman Carlson

Wow...hat off


Hòa Nguyễn

Chú nhảy từ độ cao bao nhiêu mà gãy mấy xương sườn vậy chú ?


Chu Sau Co Ba

...Mở seat belt, rà trên ngọn sóng, trim on, kéo nhẹ cyclic về sau con tàu flare up khoảng 30 feet mình rời ghế nhảy qua cửa khi được nửa người vói tay hất cyclic qua phía bên kia, mọi động tác rất chính xác chiếc máy bay tiếp tục flare tới và mình rơi xuống nước gảy mấy cái xương sườn .. chả ai chết ai, ihihi ..  😉


Tuyen Nguyen

Chu Sau Co Ba bữa nào làm lại động tác này cho .. thèng cháu nội coi nhe chú 6 😛


Long Nguyen

Tấm hình Đại Ca chụp thời chiến tranh rất phong độ và kiêu hùng


Đáp Huỳnh

PHƯỚC lớn...MẠNG lớn


Mia Ta

Đàn anh tui number ..... hỏng biết luôn .

Moodies An animated yellow left hand with thumb up. sticker


Đáp Huỳnh

Số Hà Bá chê anh ơi, em củng bị chê vài lần


facebook chuyện ĐÔI GIÀY CÒN CÓ SỐ



Đang trong giai đoạn thiết kế, sẽ có nhiều bài mới thêm vào trang này, mời các bạn trở lại đón xem ..




Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn. Anh Hùng Vị Quốc Vong Thân 👈

Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn sinh ngày 24.3.1938 tại xã Vĩnh Thạnh Vân, Rạch Giá. Thân phụ của ông là một hạ sĩ quan phục vụ trong Quân Đội Quốc Gia Việt Nam (danh xưng của quân đội trong thời Đệ Nhất Cộng Hòa, dưới sự lãnh đạo của Tổng Thống Ngô Đình Diệm). Đại Tá Cẩn sinh ra và lớn lên trong thời buổi chiến tranh, nên khi lên bảy tuổi ông sắp sửa cắp sách đến trường, thì chiến tranh Việt-Pháp bùng nổ, việc học của ông bị gián đoạn. Mãi hai năm sau, tức vào năm 1947 ông mới được đi học lại, sau khi tình hình ở các thành phố trở lại yên tĩnh, quân Việt Minh rút về các chiến khu, quân Pháp chiếm đóng các thành phố, ông mới nhập học Trường Thiếu Sinh Quân Gia Định.


Sau đó, ông theo học Khóa 2 Sĩ Quan Hiện Dịch tại Trường Hạ Sĩ Quan QLVNCH, Đồng Đế, Nha Trang. Tốt nghiệp, Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn được thuyên chuyển về Biệt Động Quân Vùng 4 Chiến Thuật Miền Tây, sau một khóa học Rừng Núi Sình Lầy của binh chủng Mũ Nâu. Khả năng quân sự thiên bẩm, tài chỉ huy và sự chiến đấu hết sức gan dạ của Chuẩn Úy Cẩn, đã đem nhiều chiến thắng vang dội về cho TĐ42BĐQ, nên ông được thăng cấp đặc cách nhiều lần tại mặt trận, và Trung Úy Cẩn được bổ nhiệm làm Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 42BĐQ, đặt dưới quyền chỉ huy của một chiến binh lừng lẫy và nhiều huyền thoại không kém là Thiếu Tá Lưu Trọng Kiệt.


Vì những chiến công ngoài chiến trường, tính đến năm 1970 thì Trung Tá Hồ Ngọc Cẩn là chiến sĩ được tưởng thưởng nhiều huy chương nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, với 78 chiếc của gồm 1 Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương, 25 Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu, 45 Anh Dũng Bội Tinh với các loại Ngôi Sao, 3 Chiến Thương Bội Tinh và 4 Huy Chương Hoa Kỳ.


Năm 1973, Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn được trao chức tỉnh trưởng Chương Thiện, một tỉnh có địa hình phức tạp nhất vùng đồng lầy Miền Tây, với cái gai nhọn nhức nhối mật khu U Minh Thượng, từ đó quân Bắc Việt và Việt Cộng phóng ra những cuộc đánh phá lớn, uy hiếp các quận xã hẻo lánh. Khi đó, ông mới có 35 tuổi, là vị tỉnh trưởng trẻ tuổi nhất của Việt Nam Cộng Hòa.


Ngày 30-4-1975, lúc 9 giờ tối, gần nửa ngày sau khi Tướng Dương Văn Minh đọc lệnh đầu hàng, Đại Tá Cẩn cùng các sĩ quan trong Ban Chỉ Huy Tiểu Khu và các chiến sĩ Tiểu Khu Chương Thiện vẫn chiến đấu đến 11 giờ trưa ngày 1.5.1975, khi quân ta hết đạn, Đại Tá Cẩn lệnh cho thuộc cấp buông súng. Khi những người lính VC chỉa súng vào hầm chỉ huy Tiểu Khu Chương Thiện, Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, vị Trung Úy tùy viên và các sĩ quan tham mưu, hạ sĩ quan và binh sĩ tùng sự đều có mặt. VC tạm cho các sĩ quan tham mưu được về nhà, còn Đại Tá Cẩn thì chúng áp giải ông sang giam trong Ty Cảnh Sát Chương Thiện.

Ngày 14.8.1975, VC giải Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn về Cần Thơ xử bắn tại sân vận động. Trước khi bị bắn, ông khẳng khái tuyên bố: “Tôi không đầu hàng, các ông cứ bắn tôi đi. Nhưng trước khi bắn, hãy để cho tôi mặc quân phục và chào lá quốc kỳ của tôi lần cuối”. VC kính sợ ông, nhưng chúng đã từ chối. Tuy nhiên, VC chấp thuận không bịt mắt ông theo lời ông yêu cầu. Ông thản nhiên nhìn vào họng súng của kẻ thù, và tha thiết nhìn lần cuối quê hương đất nước và đồng bào trước khi súng địch nổ.Cùng ngẩng cao đầu đi vào chiến sử Việt Nam với Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn tại sân vận động Cần Thơ là người anh hùng Thiếu Tá Trịnh Tấn Tiếp, Quận Trưởng quận Kiến Thiện, bạn đồng khóa với Đại Tá Cẩn, và là người đã cùng các chiến sĩ Địa Phương Quân Chi Khu chiến đấu dũng cảm đến sáng ngày 1.5.1975 khi ông bị sa vào tay giặc.

 LỜI MỞ ĐẦU:

Có rất ít người hiểu rõ những nét hào hùng của Thiếu Sinh Quân, nhất là trong thời cận đại 1954 đến năm 1956 rồi cho đến ngày 30 tháng 04 năm 1975. Họ là những đứa con trung thành với Tổ Quôc Dân Tộc, những cán bộ nòng cốt trung kiên của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, những chiến sĩ can trường “chống cộng” của Người Việt Quồc Gia. Từ trước tới nay đã trải qua bao thế hệ, Họ vẫn xứng đáng là “Những người con yêu của Đất Mẹ Việt Nam”. Chúng tôi xin tóm lược những sự kiện được dẫn chứng từ các tài liệu lịch sử được sưu khảo từ năm 1899 trong Văn Khố Pháp Quốc, và những sự kiện lich sử thời cận đại, từ năm 1956 đến năm 1975, đặc biệt là trong những ngày đau thương của đất nước Việt Nam, trước và trong ngày 30 tháng 4 năm 1975, để chứng minh những điều của ”Lời mở đầu” trong tập tài liệu nói về “Thiếu Sinh Quân của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà”..


Vào thời Pháp thuộc, dưới triều đại Vua Minh Mạng, năm 1899, Toàn Quyền Đông Dương Paul Doumer ký Nghị định ngày 21 tháng 11 năm 1899, cho 2 đơn vi Quân Đội Liên hiệp Pháp, tại Hà Nội và Sài Gòn, được thành lập 2 TOÁN Thiếu Sinh Quân, nhân số TSQ vào thời kỳ nầy, mỗi TOÁN chỉ có 10 người. Từ đó các Trường hay Toán, tại những nơi khác, lần lượt được thành lập, và nhân số các Thiếu Sinh Quân được thu nhận cũng từ từ tăng lên từ 10 đến 20 rồi 50.


Ngoài Bắc có các Toán Thiếu Sinh Quân: Móng Cái, Núi Đèo, Đáp Cầu, Phủ Lạng Thương, Việt Trì, Hà Nội; tại miền Trung có Trường Thiếu Sinh Quân Huế, (trước tọa lạc tại thành Mang Cá, sau dời vào Thành Nội Huế); trong Nam có các TrườngThiếu Sinh Quân Đông Dương (tại Vũng Tàu), Thủ Dầu Một (tại Tỉnh Bình Dương), Đa Kao (tại Tỉnh Gia Định), Thành Ô Ma (Tại Tổng Nha Cảnh Sát cũ Sài Gòn), Đặc Lắc (tại Thị Xã Đà Lạt); Ban Mê Thuột (tại Tỉnh Ban Mê Thuột), và Trường Thiêu Sinh Quân Mỹ Tho (tại Tỉnh Lỵ Mỹ Tho).



Về phương cách huấn luyện và điều hành của các Toán hay Trường, đều rập theo khuân mẫu của các Trường Thiếu Sinh Quân của Quân Đội Pháp tại Pháp Quốc.


Sau Hiệp Định Genève 1954, (chia đôi Đất Nước) các Trường Thiếu Sinh Quân Miền Bắc được di chuyển vào Miền Nam, và được sát nhập vào Trường Thiếu Sinh Quân tại Tỉnh Lỵ Mỹ Tho.


Trong tổ chức của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà chúng ta, có Quân Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, đào tạo và cung cấp cho Quân Đội những Sĩ Quan Hiện Dịch, Chuyên Nghiệp, Quân Trường Võ Khoa Thủ Đức, đào tạo và cung cấp cho Quân Đội những Sĩ Quan Trừ Bị; Quân Trường Đồng Đế (Nha Trang), huấn luyện và đào tạo những Sĩ Quan cũng như Hạ Sĩ Quan hiện dịch cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà.



Duy nhất chỉ có một Quân Trường đã đào tạo và cung cấp cho Quân Đội, không những Hạ Sĩ Quan, Sĩ Quan Cấp Úy, Sĩ Quan Cấp Tá và cả những Sĩ Quan Cấp Tướng Lãnh, đó là Trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam Cộng Hoà.


Về cấp Tướng Lãnh, điển hình qua 2 Vị Tướng, gốc Thiếu Sinh Quân: Thiếu Tướng Nguyễn Văn Vận là Vị Tướng Lãnh đầu tiên của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà; Ông có công lao rất lớn trong việc gầy dựng Quân Đội Quốc Gia Miền Nam; và Thống Tướng Lê Văn Tỵ, Vị Tổng Tham Mưu Trưởng đầu tiên của Quân Lực Việt Nam Cộnh Hòag Hoà.


Tiếp theo các Tướng Lãnh đàn Anh, còn có các Tướng khác như Trung Tướng Nguyễn văn Là (cựu Tổng Tham Mưu Phó Quân Lực), Trung Tướng Nguyễn Hữu Có (Cựu Tổng Trưởng Quốc Phòng), Thiếu Tướng Nguyễn Sĩ Quang, Thiếu Tướng Đoàn Văn Quảng (Cựu Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt), Thiếu Tướng Hoàng Văn Lạc (Cựu Tư Lệnh Phó Quân Đoàn 1/Quân Khu I), Thiếu Tướng Đào Duy Ân (Cựu Tư Lệnh Phó Quân Đoàn 3/Quân Khu III), Thiếu Tướng Trương Quang Ân (Cựu Tư Lệnh Sư Doàn 23/ Khu 23 Chiến Thuật), Chuẩn Tướng Lý Tòng Bá (Nguyên Tư Lệnh Sư Đoàn 25/ Khu 31 Chiến Thuật). Tất cả đều là những vị Tướng kiệt xuất trong hàng ngũ Tướng Lãnh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, một lòng trung thành với Đất Nước Dân Tộc.


Ngoài các Tướng Lãnh kể trên, từ nơi lò luyện thép Thiếu Sinh Quân, còn cung cấp cho Quân Đội hàng trăm hàng nghìn Sĩ Quan Cấp Tá, Cấp Úy, và Hạ Sĩ Quan, rải đều cùng khắp 4 Quân Khu, 4 Vùng Chiến Thuật, hiện diện đều trong các Quân Binh Chủng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, nhiều nhất là trong các đơn vị hành quân tác chiến.


Đơn vị nào cũng có Thiếu Sinh Quân, và luôn được cấp chỉ huy tin dùng ở đức tính “gan lì can đảm” trên trận mạc. Đâu đâu cũng có những đứa con trung kiên của đất nước, đồng cam lao cộng khổ với các Chiến Hữu khác, để cùng chia sẻ những nổi nhọc nhằn với Đất Mẹ Việt Nam, trong suốt 30 năm chinh chiến giữa Quốc Gia và Cộng Sản.

  

Giai đoạn chuyển tiếp bắt đầu từ thời Pháp thuộc chuyển qua thời kỳ ảnh hưởng Hoa Kỳ, tức là từ năm 1954 đến năm 1956.


 Giai đoạn này rất là căng thẳng, vì phái bộ viện trợ Hoa Kỳ không có ngân khoản dự trù cho các trường Thiếu Sinh Quân và họ đề nghị với Bộ Quốc Phòng Việt Nam Cộng Hoà cho giải tán hết tất cả 6 Truờng Thiếu Sinh Quân hiện có tại Miền Nam Việt Nam.


Nhưng rất may, đến giớ phút chót, nhờ ân đức của Tống Thống Ngô Đình Diệm và Trung Tướng Lê Văn Tỵ (đang là Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực), Tổng Thống Ngô Đình Diệm có quyết định:


Không những không giải tán, mà còn ra lệnh cho Tổng Tham Mưu Ttưởng Quân Đội, cho tập trung hết tất cả 6 Trường Thiếu Sinh Quân hiện hữu, nhập lai chung thành một trường Thiếu Sinh Quân thống nhất, tổng cộng 1,350 TSQ đồng di chuyển về Vũng Tàu, và được nâng cấp lên thành “Quân Trường” có tầm vóc Quốc Gia, với danh xưng “Trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam”, vào ngày 01 Tháng 06 năm 1956.


Ngân khoản đài thọ cho Quân Trường Thiếu Sinh Quân được du di từ ngân khoản dành cho Quân Đội Quốc Gia hiện hữu.


Từ ngày Trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam được chính thức thành lâp (tháng 6 năm 1956, cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, trải qua 19 năm, có thể nói là thời kỳ “CỰC THỊNH” của Trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam.



Tính từ khi mới thành lập những Toán TSQ (năm 1899) đến năm 1975, Quân Trường Thiếu Sinh Quân đã đào tạo và cung cấp cho Quân Đội được 6,000 đứa con yêu cho đất nước, những cán bộ Quân Sự chuyên nghiệp cho Quân Đội có trình độ Văn Hoá bậc Đại Học như:


- Các cựu TSQ tốt nghiệp từ Quân Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, có bằng Cử Nhân Khoa Học Thực Nghiệm, điển hình như Cựu TSQ Đặng Phương Thành, Cựu TSQ Nguyễn Ngọc Ánh, và một số Huynh Đệ cùng Khoá khác.


- Các cựu TSQ, tốt nghiệp Trường Đại Học Sư Phạm, với Bằng Đại Học Sư Phạm. Sau khi tốt nghiệp, được điều động trở về Trường TSQ, làm Giáo Sư Văn Hoá, để tiếp tục đào tạo và dạy dỗ đàn em TSQ. Điển hình như: cựu TSQ Lê Văn Hai, cựu TSQ Chu Văn Hải và một số đông các cựu TSQ khác.


Các cựu TSQ có Bằng Cử Nhân Luật, sau khi tốt nghiệp, được Bộ Ngoại Giao tuyển dụng, để trở thành những Tùy Viên Quân Sự cho các Sứ Quán VNCH tại các nước đồng minh trên thế giới, điển hình như cựu TSQ Nguyễn Quang Mông, cựu TSQ Đặng Văn Dũng và một vài cựu TSQ khác.

  

Các cựu TSQ tốt nghiệp Trường Quân Y hay Dân Y, có bằng Y Khoa Bác Sĩ, điển hình như cựu TSQ Trần Thế Tùng tức nhà văn sử học Trần Đại Sỹ. Ngoài Trần Thế Tùng, còn có rất nhiều Y khoa Bác Sĩ Quân Y, điển hình như cựu TSQ Đỗ Đình Tưởng, Hoàng Đình Thái,.và một số đông Quân Y Sĩ khác; sau khi tốt nghiệp, họ được bổ sung đi các các đơn vị hành quân tác chiến.

  

Trước ngày Quốc Phá Gia Vong, vào năm 1972-1973 , còn có 2 cựu TSQ được giữ chức vụ Tỉnh Trưởng, đó là cựu TSQ Hồ Ngọc Cẩn (Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng TK/ Chương Thiện vào năm 1973), và cựu TSQ Nguyễn Ngọc Ánh (Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng TK/ Bình Tuy vào năm 1972).


 Tiếp nối đàn anh, gần ngày 30 tháng 4 năm 1975, một nhóm 07 TSQ may mắn được trực thăng Mỹ “bốc đi”, nay đã trở thành những chuyên viên cao cấp của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ, có Bằng Tiến Sĩ, có người đang là Giáo Sư Đại Học, (nghành Sinh Lý Hoá = Bio-Chemist) đang phục vụ tại Cơ Quan Nguyên Tử Lực Hoa Kỳ, điển hình như cựu TSQ Phi Quang Khải (mang cấp bậc giả định Chuẩn Tướng).

  

Sau năm 1975, kiểm điểm chỉ còn lại 1,500 Huynh Đệ TSQ mà thôi. Như vậy, máu xương cũa TSQ đã cống hiến cho Đất Mẹ Việt Nam lên đến ¾ = 75% nhân số.


Đàn anh dẫn dắt đàn em trong ngày khai giảng niên học mới (hình bị mất)


Đã trải qua 34 năm, kể từ ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà bị” BỨC TỬ”, vào gần kề và trong thời gian ”Quốc Phá Gia Vong” đó, vẫn còn những “Đứa Con Yêu” của Tổ Quốc, những cán bộ trung kiên của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, kể cả một Quân Trường mang tên Thiếu Sinh Quân Việt Nam, nêu gương bất khuất, không chịu đầu hàng Cộng Sản, vẫn cương quyết chiến đấu đến giờ phút cuối cùng, xuyên qua 3 sự kiện “Lịch Sử “ như sau:


1. TRẬN CHIẾN TRÊN SÔNG VÀM CỎ TÂY VỚÍ CỐ ĐẠI TÁ CỰU TSQ ĐẶNG PHƯƠNG THÀNH:


Ngày 16 tháng 04 năm 1975 (2 tuần trước ngày mất nước), trên kinh Thủ Thừa thuộc Tỉnh Long An giáp giới Sông Vàm Cỏ Tây, lực lượng Thuỷ Bộ gồm có Giang Đoàn Đặc Nhiệm 99 với gần 100 giang đĩnh, do Vị Tư Lệnh Hải Quân, Phó Đô Đốc Chung Tấn Cang, cấp tốc thành lập để kịp thời đáp ứng cho nhu cầu của đất nước đang cơn ngặt nghèo, dầu sôi lửa bỏng, hợp cùng Trung Đoàn 12 thuộc Sư Đoàn 7 Bộ Binh, do Đại Tá Đặng Phương Thành, (gốc Thiếu Sinh Quân, tốt nghiệp Khóa 16 Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam) đã chận đánh Công Trường 5 thuộc Quân Đoàn 232 Cộng Sản Bắc Việt. do Tướng Cộng Sản Lê đức Anh Chỉ Huy, ngăn không cho đơn vị này (Công Trường 5) vượt qua Sông Vàm Cỏ. Trung Đoàn 12 Bộ Bộ Binh và Lực lương Thuỷ Bộ 99, đã đánh một trận để đời tại ngã ba Sông Vàm Cỏ Tây, Cộng quân phải khiếp đảm kinh hồn tháo chạy, để lại trên chiến địa trên 3,000 xác cán binh tử trận. Máu Cộng Quân loang đầy dòng sông. Xác Cộng quân lấp đầy con kinh Thủ Thừa ra tận đến bờ Sông Vàm Cỏ.

Nhưng rồi….Người Hùng Đặng Phương Thành phải chịu kiếp tù đày khổ sai. Nhớ lại cái hận của trận thảm bại năm xưa (tại ngã ba Sông Vàm Cỏ Tây), và nhân cơ hội cựu TSQ Đăng Phương Thành đứng ra tổ chức vượt ngục…bị bắt trở về: trong đêm trời vần vũ mây đen, tại căn hầm “khổ sai” biệt lập, các bạn “tù” kế cận, nghe được tiếng “Kêu Trời” và những tiếng rên la uất nghẹn của người Anh Hùng thất thế sa cơ…. Sáng sớm hôm sau, khi sương mù còn giăng phủ, người ta lờ mờ thấy mấy tên cai ngục lôi xác một người từ trong xà lim bỏ ra ngoài…rồi ra lệnh cho các bạn tù khác khiêng đi chôn. Các “tù” Quân Nhân QL/VNCH mới nhận ra thân xác của Đại Tá Đặng Phương Thành, mình mẩy tím bầm, môi mắt sưng vù, miệng còn động vũng máu tươi, chết một cách tức tưởi, thật thảm thương !!! Đúng là Mãnh Hổ sa cơ, lũ Chồn Cáo chia nhau xẻ thịt.


2. TẠI TỈNH LỴ CHƯƠNG THIỆN VÙNG 4 CHIẾN THUẬT VỚICỐ ĐẠI TÁ TỈNH TRƯỞNG CỰU TSQ HỒ NGỌC CẨN

Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn xuất thân Khóa 2 Sĩ Quan đặc biệt Trường Đồng Đế (Nha Trang), với cấp bậc Chuẩn Úy giữa năm 1962. Thuộc Binh Chủng Biệt Động Quân, Ông là một trong “NGŨ HỔ TƯỚNG” Miền Tây, bởi những chiến tích lẫy lừng trong những cuộc hành quân có tên “Dân Chi” của Sư Đoàn 21 Bộ Binh (Khu 42 Chiến Thuật). Ông cũng là Vị Trung Đoàn Trưởng, Chỉ Huy Chiến Đoàn 15 thuộc Sư Đoàn 9 Bộ Binh đến tăng cường, giải vây An Lộc. Năm 1972, sau trận An Lộc, Ông được vinh thăng Đại Tá đặc cách mặt trận, và được bổ nhiệm giữ chức Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Chương Thiện (năm 1973). Với tính tình cương trực, yêu thương đồng đội, quí trọng dân chúng, Đại Tá Cẩn đã rất thành công trong chức vụ ”Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng” Tiểu Khu Chương Thiện. (Lính mến, Dân thương).

Vào những ngày cuối cùng của “THÁNG TƯ ĐEN”, với tinh thần bất khuất, sẵn mang “dòng máu Thiếu Sinh Quân Chống Cộng” trong người, Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn cùng một số chiến hữu “gốc Thiếu Sinh Quân” cùng nhau ngăn chặn Cộng quân, chiến đấu đến viên đạn cuối cùng.

Theo tài liệu ghi chép lại, Đại Tá Cẩn cùng 4 chiến hữu gốc TSQ trong đó có Trung Sĩ Vũ Tiến Quang, và 1 tài xế, trấn thủ trong một pháo đài xây trước Tiểu Khu (cạnh Tòa Hành ChánhTỉnh).

Sau vài giờ, từ khi Tổng Thống Dương văn Minh tuyên bố đầu hàng Cộng Sản vô điều kiện và kêu gọi các đơn vị và Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà buông súng “đầu hàng” để “bàn giao”, một toán khoảng 15 cán bộ Cộng Sản hăm hở đi vào Toà Hành Chánh Tỉnh để nhận bàn giao. Tất cả lũ “Vẹm” chưa được đặt chân đến “thềm” trước cửa Tòa Hành Chánh Tỉnh đều bị bắn ngã gục.

Sau đó, Cộng quân huy động cả Tiểu Đoàn Bộ Binh thêm 4 chiếc M.113 của VNCH (chiến lợi phẩm) ùn ùn mở cuộc tấn công tràn vào. Với 2 khẩu Đại Liên M.60 và khẩu đại bác không giựt 57ly, từ trong “Bunker” thay nhau khạc đạn, 4 chiếc M.113 đều bi bắn cháy bất động. quân Cộng sản vội rút lui ra xa. Chúng chỉnh đốn lại hàng ngũ, rồi lại tấn công…Trận chiến kéo dài cho đến chiều. Cộng quân cũng vẫn không tấn chiếm được pháo đài (Bunker) nầy. Cho đến khi Đại Tá Cẩn cùng 4 chiến hữu chiến đấu đến viên đạn cuối cùng thì mới chịu thúc thủ để cho “tên” tài xế chĩa súng bắt buộc phải buông súng đầu hàng.

Trận chiến được kết thúc với trên 100 cán binh Cộng Sản bị hạ; Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn và các Chiến hữu bị Cộng quân bắt giữ.

2 chiến sĩ Anh Hùng (gốc Thiếu Sinh Quân) bị hành quyết tại chỗ ngay sau đó. Riêng Đại Tá Cẩn bị chúng đặt trên một xe 4×4 mui trần chạy chung quanh Tỉnh Lỵ, phát loa kêu gọi “Đồng Bào” đến dự cuộc “đấu tố “ Tội Ác”??? Đại Tá Cẩn, 2 tay bị trói quặt sau lưng, đứng thẳng, ngẩng đầu nhìn về phía trước, dõng dạt nói trước đám đông dân chúng (mọi người hiện diện, trên gương mặt đều có một nét buồn chán sâu xa). Ông nói: “Tôi nhận thấy, tôi không có làm điều gì có lỗi với đồng bào, dân cư trong Tỉnh, thì làm sao tôi lại có tội với nhân dân!!! Nếu nói rằng tôi có tội!!! thì chỉ có cái tội “Tôi bất tuân thượng lệnh không chịu buông súng đầu hàng Cộng sản”, còn hơn thế nữa, chúng tôi vẫn tiếp tục cầm súng chiến đấu chống lại bọn chúng tới cùng.”

Sau đó, Cộng quân giải Đại Tá Cẩn về Tỉnh Cần Thơ, khổ sai giam cầm Người, hành hạ đủ điều, cuối cùng bị Cộng quân đem ra “hành quyết” vào sáng ngày 14 tháng 8 năm 1975 tại sân banh Cần Thơ dưới sự chứng kiến của hàng ngàn dân chúng (bị bắt buộc phải đi chứng kiến). Trong số này có một chứng nhân còn sống, phu nhân của Cố Đại Tá Nguyễn Văn Phát. Bà Nguyễn Thị Vi viết trong tác phẩm tựa đề 14.8.75 Ngày cuối cùng của Đại Tá HỒ NGỌC CẨN:

“Ba giờ sáng, mỗi nhà một người cùng ra đi, đến tập hợp tại văn phòng khóm, nơi đã được tên tổ trưởng cho biết trước từ chiều hôm qua. Nhà nào cũng phải có người đi, không được vắng mặt, đặc biệt nhà có Sĩ Quan đi học tập, thì phải là người chủ gia đình, nghĩa là Cha Mẹ hay người Vợ. Lý do, địa điểm không được biết trước. Lúc đó người ta đoán lờ mờ có lẽ thì cũng đi “mít tinh” như những lần trước. Cũng được gọi tập hop lúc 3 giờ sáng, rối được dẫn đi bộ tới nơi cử hành lễ, xa trên 2 hay 3 cây số! Lần này thì chắc cũng vậy thôi, cũng đến rồi đi…rồi cùng nhau phải la lớn, hô to các khẩu hiệu “hoan hô” “đả đảo”. Với những thân người uể oải, gương mặt buồn rầu đầy lo lắng, những đôi mắt ngơ ngác trắng bệch vì mất ngủ, những mái đấu bù rối không được chải gỡ, mà gỡ để làm gì? Khi tất cả mọi người đều cần phải tự biến dạng con người mình cho được xấu đi, tàn tạ đi để hoà hợp cho giống hình hài của lũ người man rợ; Để chúng bớt chú ý, vì lý do thấy mình sạch sẽ tươm tất thì sẽ bị chúng để ý theo dõi, hay sẽ bị chúng nhìn bằng cặp mắt căm thù, ghen ghét, rồi có thể bị gọi đến hỏi thăm, bị tù, bị mất nhà như chơi. Chúng sẽ ghép cho cái tội lảm tình báo phản động?!!. Như những người khác, tôi cũng có mặt lúc 3 giờ sáng hôm ấy. Với chiếc áo bà ba nhạt mầu và chiềc nón lá bung vành, bộ đồ ngụy trang đặc biệt mà tôi thường dành để đi dự lễ và hội họp, từ sau ngày 30 tháng 4 năm 75. Lách mình chen vào đám đông để tìm một chổ sáng nhất, tôi đứng ngay trên hàng đầu để cho tên tổ trưởng, khóm trưởng thấy mặt, với dụng ý là để cho chúng điểm danh có đi họp, để tránh bị theo dõi báo cáo, để không bị ghép vào tội phản động, tội làm tình báo cho Mỹ, chứ không phải để nghe bọn chúng giáo điều. Sau một lúc điểm danh nhanh chóng, đầy đủ mặt (đâu có ai dám vắng mặt), tên khóm trưởng ra lệnh sắp hàng đôi, rồi đi. Tất cả cùng gập đầu răm rắp nghe theo, mà không được biết là đi đâu?!. Đặc biệt lần này đi trong im lặng, không bị kêu hô hoan nghênh đã đảo gì hết !! Như một đoàn “ma trơi” đi trong sương lạnh. Từng cây thịt chệnh choạng bước, nối đuôi nhau, câm lạnh nghẹn lòng!!. Thành phố Cần Thơ còn ngáy ngủ, chìm trong ánh sáng lờ mờ của ánh đèn đường thưa thớt đầy hơi sương, không khí nặng nề khó thở. Đêm vẫn chưa tàn, cánh Thu buồn ảm đạm, mây giăng ngập trời một mầu xám sậm thê lương!! đó đây như nức nở !! Như oán than, như muốn gào, muốn thét lên; tiếng thét câm hờn !! hận nghìn trùng !! “Họa Cộng sản đã bao trùm đất nước Việt Nam”. Cần Thơ, Tây Đô Thành, ngày nay vương đầy màu máu! khắp lối đều đỏ! nhuộm đỏ cả những đôi mắt nhung huyền của những thiếu phụ Miền Nam. Khởi đi từ đường Lê văn Duyệt, đoàn người chúng tôi được dẫn đi qua đường Trần Thanh Cần, Phan Đình Phùng, Nguyễn An Ninh, rồi Nguyễn Tường Tộ, thẳng vào “sân vận động” của Tỉnh. Trên đường đi, chúng tôi cũng gặp đoàn người khác đông và dài ngoằn ngoèo như đoàn của chúng tôi, từ các ngã đường kéo đến, nhập vào rồi cùng đi. Họ cũng là những người như chúng tôi, bị bắt buộc tập họp, rồi bị dẫn đi, cũng không được biết trước là đi đâu và để làm gì ? Đến sân vận động, tôi nhìn thấy nơi đó đã có rất đông người đến trước. Đặc biệt là ở đó đây có nhiều tên cán bộ Cộng sản, tay cầm súng lăm le có vẻ quan trọng lắm, nét mặt chau choắt đăm đăm, chúng ngẩng cổ nhìn soi bói từng người với vẻ căm hờn cay đắng! Một cảm giác lạ đến với tôi như có một điềm gì báo trước. Tôi rùng mình ớn lạnh. Mọi người chắc cũng có cảm giác như tôi, im lặng nhìn nhau lo sợ, đợi chờ. Trời âm u buồn! Buổi bình minh như không chịu đón ánh sáng mặt trời !!! mỗi người trong lúc đó như không có buổi ban mai .. !!.. - Làm gì đây? Lễ gì đây? Tiềng xì sào người nọ hỏi người kia: - Ai cũng không biết !! - Chắc là đón cán bộ cao cấp trung ương xuống nói chuyện ? - Không biết !! Sống dưới chế độ Cộng sản, người dân muốn được an thân thường hay phải nói “không biết”. Giữa sân vận động một chiếc bàn dài được đặt sẵn, chung quanh đây đó đầy sắc cờ được dựng lên ngoài mầu cờ xanh đỏ gọi là “cờ giải phóng quân” của chúng, còn có cờ lễ như các cây phướn đủ màu như đám cúng “tống ôn” của thầy pháp. Ngoài cổng nhiều đoàn người tiếp nối tiến vào, có nhiều chiếc xe hàng to lớn chở đầy người, có lẽ người ở ngoại ô, nơi Quận Xã cũng bị bắt buộc đến. Tất cả mọi người cũng như tôi, cứ phải đứng như vậy trong nhiều giờ, đứng mãi, đứng chai cứng người, đứng đến ngất xỉu luôn !!… Khi mặt trời lên cao, nhìn đồng hồ của người bên cạnh đã 9 giờ 30, nhiều đám người vẫn tiếp tục đến càng lúc càng đông hơn, chật ních cả sân vận động. Từng đoàn, từng đoàn được xếp đứng ngay hàng lối, còn lại một lối vào chạy thẳng đến chiếc bàn dài để ở giữa sân. Tiếp đó 4 chiếc quân xa chở đấy ấp cán bộ Cộng sản đến. Đám này ăn vận màu xanh và đen cùng với chiếc nón tai bèo trông thật là ngốc nghếch, thằng nào mặt cũng đầy sát khí, hăm hở như khỉ ăn được đậu phộng rang. Có tiếng xì xèo nho nhỏ: “Hình như xử án? Mà xử ai vậy? Câu hỏi lọt vào tai tên “cán bộ 30” đứng gần đó, tên này lớn tiếng ra cái điều sành sỏi:- Hôm nay cách mạng lập tòa án nhân dân xử mấy tên “phản động” bán nước đó. Tiếng xì xào bị cắt đứt bởi tiếng máy nổ của đoàn xe từ cổng chạy vào, nhiều chiếc xe jeep và quân xa nối tiếp nhau, giữa đoàn là một xe bít bùng, tất cả dừng lại giữa sân. Các tên Cộng sản cấp cao trên mấy chiếc jeep leo xuống đến ngồi vào bàn. Những tên nầy ăn mặc hoàn toàn khác biệt với đám cán bộ địa phương, chúng ăn vận quần áo ka ky mầu xanh lục, áo 4 túi bỏ ngoài, đầu đội nón cối. Lúc ấy người ta gọi là “bộ đội chánh quy”. Mặt chúng đầy sát khí, với đôi mắt sâu hoắm, xương gò má nhô cao, cầm thì bạnh ra, miệng hô hốc, nước da chì xanh mốc… họ cố sửa tướng ngồi cho có vẻ (?), nhưng sao tôi vẫn thấy như là ở nơi họ có một cái gì biến đổi hình người của họ thành ra dã thú sát nhân. Trên các quân xa đầy ắp cán bộ với đầy đủ võ khí cá nhân. Chúng nhẩy xuống chạy nhanh bao quanh làm một vòng rào người, những tên có nhiệm vụ chạy đến sau chiếc xe bít bùng, cửa được mở ra… từ trên xe nhẩy xuống một người hai người rối ba người….người nào cũng bị còng quặt ra sau lưng. Tôi nhìn kỹ hơn, có một người cao lớn mặc bộ bà ba đen, hình như có một nét gì quen thuộc lắm.. Trời ơi !!! Đại Tá Cẩn!!! ĐạiTá đây sao? Tôi chỉ thầm hỏi với lòng tôi trong tiềm thức nức nở nghẹn ngào !! Mắt tôi mờ dần… đầu quay quắt mạnh, cổ nghẹn cứng, ngực nặng chĩu, tay thì lạnh buồt, chân run, choáng váng!!… Tôi ngồi bệt xuống một chút, cố nén lòng để không bật ra tiếng nấc, vì tôi biết trong các buổi mít tinh, hội họp, rải rác trong đám đông luôn luôn có bọn chúng gài vào để nghe ngóng, để sách động hô hào. Tôi nhắm mắt hình dung lại quang cảnh “toà án nhân dân” trong cuốn phim “Chúng tôi muốn sống” của Lê Quỳnh, quang cảnh hôm nay thật giống cảnh trong phim, cảnh đấu tố xử án tại miền Bắc sau năm 1954. Với mấy cái nón cối để trên bàn, với tập hồ sơ dầy cộm, những tờ giấy trước mặt 5 tên cán bộ “răng hô” ngồi nơi bàn. Chúa ơi !! Tôi sợ quá !! Làm sao bây giờ? Không biết làm sao để trốn ra khỏi đám thú vật và rừng người này? Lúc đó tôi mới thấy mình sai lầm khi chọn đứng vào chỗ trước hết, đứng cho tổ trưởng nó thấy mặt mà, nhưng nếu biết trước được sự việc nầy thì chắc là tôi đã phó mặc cho chúng nó ghi sao thì ghi, báo cáo sao cũng được. Tôi sẽ vắng mặt ở nhà không đi hôm nay, hay cùng đường lắm thì chỗ đứng của tôi hôm nay là nơi sau cùng của đám đông này, để đừng xem, đừng thấy gì hết. Làm sao bây giờ? Không làm sao được vì mọi người đều đứng im. Từ nơi bục gỗ, bên mặt chiếc bàn, tên cán bộ tay cầm tờ giấy mở ra bắt đầu đọc, đại ý là thành lập toàn án nhân dân.. Chúng đọc, đọc nhều trang, nhiều tờ, mà tôi có nghe được gì đâu, Lúc ấy chắc mọi người cũng như tôi, tất cả mọi người đều hồi hộp nhìn những người bị đem ra xử. Với đầu óc quay cuồng, quanh bao ý nghĩ tò mò, đen thui.. tôi nghĩ, ngày nào, rồi đến ngày nào thật gần hay xa đến lượt mình và người thân của mình sẽ bị đem ra xử?!. Tên thứ nhất dứt lời, đến tên thứ hai ngồi giữa cũng tiếp tục nhìn vào giấy đọc, thỉnh thoảng nhìn lên rảo mắt đám đông như hăm he dằn giọng. Danh từ “phản động” “bán nước” được chúng lập lại nhiều lần như đang muốn nhai sống thịt tươi. Cứ mỗi lần chúng phát âm đến tên Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, tôi cố dằn lòng, nén tâm để nước mắt không tràn xuống rèm mi, cố mở đôi mắt nhìn Đại Tá vóc dáng hiên ngang, mặt rạng rỡ không hề mất niềm tin, mắt sáng miệng như mỉm cười, nhìn thẳng về đằng trước, mặt ngước cao, nhìn vào khoảng trời rộng mênh mông… Đại Tá không nhìn về phía bàn, không nhìn bọn chúng như không muốn nghe, muốn thấy gì ở cái lũ độc ác vô lương. Miệng Đại Tá mấp máy như đang cầu nguyện, như muốn nói lại lời gì để nhắn nhủ đến toàn quân, toàn dân, tất cả những người của miền Nam yêu dấu, như muốn trả lời câu hỏi của Tổ Quốc quê hương. “ANH ĐÃ LÀM GÌ CHO ĐẤT NƯỚC ANH CHƯA?” Thì đây là lúc Đại Tá Cẩn đã được dịp trả lời: Hôm nay, tôi được làm tròn bổn phận của người trai, đáp đền ơn nước. Và chắc trong lòng “người” cũng có chút ước mơ, mơ về các bạn đồng ngũ yêu mến, cũng cùng có một lý tưởng, một niềm tin, Sống Tự Do và Quyết chết cho Tự Do. Cả rừng người im lặng, không khí nặng nề nghẹt thở, nhiều tiếng thở nhanh, dồn dập theo giọng nói lớn của tên cán bộ xử án: “Tử Hình”. Tôi chỉ nghe được vậy, một danh từ không quen thuộc, chưa bao giờ đến bên tai tôi bởi bất cứ miệng người nào. Từ ánh mắt như nhìn vào cõi mênh mông rồi bị lôi kéo vào thực tế, ĐạiTá Cẩn nhìn thẳng vào bọn chúng, bình tĩnh hiên ngang, không một chút sợ sệt, đang sẵn sàng chờ đợi cái chết. Sau tiếng “Tử Hình” chúng tiếp: “Anh muốn nói gì không? Để tỏ lượng khoan hồng, nhân dân cho phép anh nói lời sau cùng”. Còn gì để nói khi bọn nó đã nói quá nhiều, những lời bày vẽ đặt điều, gán ghép buộc tội, rồi sau cùng cũng tự chúng kết án ra lệnh xử tử, mà bản án đã được viết sẵn, cái gì cũng ghi là theo đòi hỏi của nhân dân. Bỗng từ những chiếc máy phóng thanh vang ra liên tiếp: “Đả đảo, Đả đảo; Tử hình, tử hình”.Cả rừng người nhứt loạt bắt buộc la theo, la to theo lệnh của tổ trưởng, khóm trưởng đứng gần đó. Ngoài ra còn những tên cán bộ giả dạng dân, len lỏi vào cùng đứng với đám đông, xách động: “Hãy hô lớn lên bà con, hô lớn lên, lớn lên Tử hình tử hình”.Lúc đó thân tôi như chìm ngập trong biển người…Chúa ơi!! tất cả đã trở nên độc ác, khát máu hết rồi sao? Không đâu, trông kia cũng có nhiều người họ giống tôi, mặt bơ phờ, xanh mét, môi mấp máy không thành lời, nhưng họ cố lay động làm như cũng đang hô theo. Mắt tôi lúc nầy không rời Đại Tá Cẩn. Đại Tá Cẩn hô to: * VIỆT NAM CỘNG HÒA MUÔN NĂM… * ĐẢ ĐẢO CỘNG SẢN… Nhanh như cắt, nhiều tên cán bộ đang cầm súng đứng quanh vội nhào tới, tên đứng gần nhất nhanh tay rút chiếc khăn trong túi, nhét vào miệng Đại Tá Cẩn, rồi đưa mũi lưỡi lê đẩy chiếc khăn sâu vào thêm và nói: “Câm miệng lại”. Những tên khác kẻ nắm khuỷu tay, kẻ lấy tấm vải đen đã được chuẩn bị sẵn bịt mắt Đại Tá Cẩn, với hai tay vẫn bị còng ra sau, Đại Tá Cẩn nghiêng người lắc đầu như tỏ ý đừng bịt mắt, tôi không sợ, nhưng sau đó, chúng cũng cột mảnh vải đen vào mắt người, mở trói tay và dẫn đến đứng trước hàng bộ đội Cộng sản 5, 6 tên, tay cầm súng lăm le sẵn sàng chờ lệnh. Sau đó một tiếng hô to, một loạt súng nổ, tiếp theo sau là tiếng nổ nhỏ, gọi là phát súng ân huệ bắn thẳng vào trán Đại Tá Cẩn. Đại Tá ngã gục! Quá xúc động, tôi cũng ngã theo, bất tỉnh, không còn nghe thấy gì nữa. Khi tỉnh dậy, những bà con hàng xóm chứng kiến cuộc xử bắn Đại Tá Cẩn cũng bàng hoàng xúc động. Họ bảo tôi “Cố gắng lên chị, mình về đi, xong hết rồi” Tôi chệnh choạng bước đi, chân nặng nề nương bên cánh tay một người bạn cố gắng bước đi, đi thật nhanh khỏi chỗ này. Tôi không dám quay nhìn lại, đầu óc quay cuồng, choáng váng, lòng đầy uất hận, chạnh nghĩ đến những người thân, đến người chồng, những anh quân nhân QLVNCH giờ đây đang bị giam cầm, đang bị đầy đoạ trong ngục tù Cộng sản. Rồi đây sẽ đến phiên ai, người nào sẽ bị đưa lên đây hành quyết xử bắn . Nước mắt tôi chảy dài, tôi khóc, khóc nức nở. Nước mắt và tiếng khóc cũng không làm vơi được niềm uất hận trong tôi. Đi bên tôi còn mấy người lạ trông thấy vậy hỏi tôi: “Bộ chị có bà con với người bị xử tử à?” Im lặng tôi không trả lời. Trong lúc ấy tôi nhìn thấy những toán bộ đội Cộng sản mặt mày hờn hở, nói cười luôn miệng, làm như chúng vừa thắng được một trận chiến, giết được người cùng nòi giống Việt ! Con người vô nhân độc ác vậy sao? Thượng Đế ơi! Cúi xin Ngài hãy thương xót! Xin thương xót chúng con, những người Việt Nam đã chịu nhiều đau khổ vì chiến tranh, vì tai họa Cộng sản, đã đổi hướng xoay chiều, đưa cả giang sơn nước Việt vào con đường chết, con đường đỏ màu máụ Cúi xin Thượng Đế hãy giúp chúng con, giúp những người Quốc Gia Việt Nam yêu nước giữ vững niềm tin chờ ngày phục hận, đem lại ánh bình minh vào “Lý Tưởng Tự Do” . Xin cho anh hồn Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn được nhẹ nhàng và mãi mãi ghi sâu vào lòng mọi người Việt Nam yêu Tổ Quốc hôm nay. (Để tưởng nhớ và kính dâng anh hồn người anh hùng Hồ Ngọc Cẩn) .


VÀ "CÁI BÓNG CỦA HOÀI VĂN VƯƠNG TRẦN QUỐC TOẢN" VŨ TIẾN QUANG


Vũ Tiến Quang sinh ngày 10 tháng 9 năm 1956 tại Kiên Hưng, tỉnh Chương Thiện. Thân phụ là hạ sĩ địa phương quân Vũ Tiến Đức. Ngày 20 tháng 3 năm 1961, trong một cuộc hành quân an ninh của quận, Hạ Sĩ Đức bị trúng đạn tử thương khi tuổi mới 25. Ông để lại bà vợ trẻ với hai con. Con trai lớn, Vũ Tiến Quang 5 tuổi. Con gái tên Vũ thị Quỳnh Chi mới tròn một năm. Vì có học, lại là quả phụ tử sĩ, bà Đức được thu dụng làm việc tại Chương Thiện, với nhiệm vụ khiêm tốn là thư ký tòa hành chánh. Nhờ đồng lương thư ký, thêm vào tiền tử tuất cô nhi, quả phụ, nên đời sống của bà với hai con không đến nỗi thiếu thốn.


Quang học tại trường tiểu học trong tỉnh. Tuy rất thông minh, nhưng Quang chỉ thích đá banh, thể thao hơn là học. Thành ra Quang là một học sinh trung bình trong lớp. Cuối năm 1967, Quang đỗ tiểu học. Nhân đọc báo Chiến Sĩ Cộng Hoà có đăng bài: "Ngôi sao sa trường: Thượng-sĩ-sữa Trần Minh, Thiên Thần U Minh Hạ", bài báo thuật lại: Minh xuất thân từ trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam. Sau khi ra trường, Minh về phục vụ tại tiểu đoàn Ngạc Thần (tức tiểu đoàn 2 trung đoàn 31, sư đoàn 21 Bộ Binh) mà tiểu đoàn đang đồn trú tại Chương Thiện. Quang nảy ra ý đi tìm người hùng bằng xương bằng thịt. Chú bé lóc cóc 12 tuổi, được Trần Minh ôm hôn, dẫn đi ăn phở, bánh cuốn, rồi thuật cho nghe về cuộc sống vui vẻ tại trường Thiếu Sinh Quân. Quang suýt xoa, ước mơ được vào học trường này. Qua cuộc giao tiếp ban đầu, Minh là một mẫu người anh hùng, trong ước mơ của Quang. Quang nghĩ: "Mình phải như anh Minh".

Chiều hôm đó Quang thuật cho mẹ nghe cuộc gặp gỡ Trần Minh, rồi xin mẹ nộp đơn cho mình nhập học trường Thiếu Sinh Quân. Bà mẹ Quang không mấy vui vẻ, vì Quang là con một, mà nhập học Thiếu Sinh Quân, rồi sau này trở thành anh hùng như Trần Minh thì…nguy lắm. Bà không đồng ý. Hôm sau bà gặp riêng Trần Minh, khóc thảm thiết xin Minh nói dối Quang rằng, muốn nhập học trường Thiếu Sinh Quân thì cha phải thuộc chủ lực quân, còn cha Quang là địa phương quân thì không được. Minh từ chối:

- Em không muốn nói dối cháu. Cháu là Quốc Gia Nghĩa Tử thì ưu tiên nhập học. Em nghĩ chị nên cho cháu vào trường Thiếu Sinh Quân, thì tương lai của cháu sẽ tốt đẹp hơn ở với gia đình, trong khuôn khổ nhỏ hẹp.

Chiều hôm ấy Quang tìm đến Minh để nghe nói về đời sống trong trường Thiếu Sinh Quân. Đã không giúp bà Đức thì chớ, Minh còn đi cùng Quang tới nhà bà, hướng dẫn bà thủ tục xin cho Quang nhập trường. Thế rồi bà Đức đành phải chiều con. Bà đến phòng 3, tiểu khu Chương Thiện làm thủ tục cho con. Bà gặp may. Trong phòng 3 Tiểu Khu, có Trung Sĩ Nhất Cao Năng Hải, cũng là cựu Thiếu Sinh Quân. Hải lo làm tất cả mọi thủ tục giúp bà. Sợ bà đổi ý, thì mình sẽ mất thằng em dễ thương. Hải lên gặp Thiếu-tá Lê Minh Đảo, Tiểu Khu trưởng trình bầy trường hợp của Quang. Thiếu Tá Đảo soạn một văn thư, đính kèm đơn của bà Đức, xin bộ Tổng Tham Mưu dành ưu tiên cho Quang.

Tháng 8 năm 1968, Quang được giấy gọi nhập học trường Thiếu Sinh Quân, mà không phải thi. Bà Đức thân dẫn con đi Vũng Tàu trình diện. Ngày 2 tháng 9 năm 1969, Quang trở thành một Thiếu Sinh Quân Việt Nam.

Quả thực trường Thiếu Sinh Quân là thiên đường của Quang. Quang có nhiều bạn cùng lứa tuổi, dư thừa chân khí, chạy nhảy vui đùa suốt ngày. Quang thích nhất những giờ huấn luyện tinh thần, những giờ học quân sự. Còn học văn hóa thì Quang lười, học sao đủ trả nợ thầy, không bị phạt là tốt rồi. Quang thích đá banh, và học Anh văn. Trong lớp, môn Anh văn, Quang luôn đứng đầu. Chỉ mới học hết đệ lục, mà Quang đã có thể đọc sách báo bằng tiếng Anh, nói truyện lưu loát với cố vấn Mỹ.

Giáo-sư Việt văn của Quang là thầy Phạm Văn Viết, người mà Quang mượn bóng dáng để thay thế người cha. Có lần thầy Viết giảng đến câu:



"Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,

Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh" 

(Người ta sinh ra, ai mà không chết.

Cần phải lưu chút lòng son vào thanh sử).


Quang thích hai câu này lắm, luôn miệng ngâm nga, rồi lại viết vào cuốn sổ tay.

Trong giờ học sử, cũng như giờ huấn luyện tinh thần, Quang được giảng chi tiết về các anh hùng: Hoài Văn Vương Trần Quốc Toản, thánh tổ của Thiếu Sinh Quân, giết tươi Toa Đô trong trận Hàm Tử. Quang cực kỳ sùng kính Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng, từ chối công danh, chịu chết cho toàn chính khí. Quang cũng khâm phục Nguyễn Biểu, khi đối diện với quân thù, không sợ hãi, lại còn tỏ ra khinh thường chúng. Ba nhân vật này ảnh hưởng vào Quang rất sâu, rất đậm.

Suốt các niên học từ 1969-1974, mỗi kỳ hè, được phép 2 tháng rưỡi về thăm nhà, cậu bé Thiếu Sinh Quân Vũ Tiến Quang tìm đến các đàn anh trấn đóng tại Chương Thiện để trình diện. Quang được các cựu Thiếu Sinh Quân dẫn đi chơi, cho ăn quà, kể truyện chiến trường cho nghe. Một số ông uống thuốc liều, cho Quang theo ra trận. Quang chiến đấu như một con sư tử. Không ngờ mấy ông anh cưng cậu em út quá, mà gây ra một truyện động trời, đến nỗi bộ Tổng Tham Mưu Việt Nam, bộ Tư-lệnh MACV cũng phải rởn da gà! Sau trở thành huyền thoại. Câu chuyện như thế này:

Hè 1972, mà quân sử Việt Nam gọi là Mùa Hè Đỏ Lửa, giữa lúc chiến trường toàn quốc sôi động. Bấy giờ Quang đã đỗ chứng chỉ 1 Bộ Binh. Được phép về thăm nhà, được các đàn anh cho ăn, và giảng những kinh nghiệm chiến trường, kinh nghiệm đời. Quang xin các anh cho theo ra trận. Mấy ông cựu Thiếu Sinh Quân, trăm ông như một, ông nào gan cũng to, mật cũng lớn, lại coi trời bằng vung. Yêu cậu em ngoan ngoãn, các ông chiều…cho Quang ra trận. Cuộc hành quân nào mấy ông cũng dẫn Quang theo.

Trong môt cuộc hành quân cấp sư đoàn, đánh vào vùng Hộ Phòng, thuộc Cà Mau. Đơn vị mà Quang theo là trung đội trinh sát của trung đoàn 31. Trung đội trưởng là một thiếu úy cựu Thiếu Sinh Quân. Hôm ấy, thông dịch viên cho cố vấn bị bệnh, Quang lại giỏi tiếng Anh, nên thiếu úy trung đội trưởng biệt phái Quang làm thông dịch viên cho cố vấn là thiếu úy Hummer. Trực thăng vừa đổ quân xuống thì hiệu thính viên của Hummer trúng đạn chết ngay. Lập tức Quang thay thế anh ta. Nghĩa là mọi liên lạc vô tuyến, Hummer ra lệnh cho Quang, rồi Quang nói lại trong máy.

Trung đội tiến vào trong làng thì lọt trận điạ phục kích của trung đoàn chủ lực miền, tên trung đoàn U Minh. Trung đội bị một tiểu đoàn địch bao vây. Vừa giao tranh được mười phút thì Hummer bị thương. Là người can đảm, Hummer bảo Quang đừng báo cáo về Trung-tâm hành quân. Trận chiến kéo dài sang giờ thứ hai thì Hummer lại bị trúng đạn nữa, anh tử trận, thành ra không có ai liên lạc chỉ huy trực thăng võ trang yểm trợ. Kệ, Quang thay Hummer chỉ huy trực thăng võ trang. Vì được học địa hình, đọc bản đồ rất giỏi, Quang cứ tiếp tục ra lệnh cho trực thăng võ trang nã vào phòng tuyến địch, coi như Hummer còn sống. Bấy giờ quân hai bên gần như lẫn vào nhau, chỉ còn khoảng cách 20-30 thước.

Thông thường, tại các quân trường Hoa-kỳ cũng như Việt Nam, dạy rằng khi gọi pháo binh, không quân yểm trợ, thì chỉ xin bắn vào trận địa địch với khoảng cách quân mình 70 đến 100 thước. Nhưng thời điểm 1965-1975, các cựu Thiếu Sinh Quân trong khu 42 chiến thuật khi họp nhau để ăn uống, siết chặt tình thân hữu, đã đưa ra phương pháp táo bạo là xin bắn vào phòng tuyến địch, dù cách mình 20 thước. Quang đã được học phương pháp đó. Quang chỉ huy trực thăng võ trang nã vào trận địch, nhiều rocket (hoả tiễn nhỏ), đạn 155 ly nổ sát quân mình, làm những binh sĩ non gan kinh hoảng. Nhờ vậy, mà trận địch bị tê liệt.

Sau khi được giải vây, mọi người khám phá ra Quang lĩnh tới bẩy viên đạn mà không chết: trên mũ sắt có bốn vết đạn bắn hõm vào; hai viên khác trúng ngực, may nhờ có áo giáp, bằng không thì Quang đã ô-hô ai-tai rồi. Viên thứ bẩy trúng…chim. Viên đạn chỉ xớt qua, bằng không thì Quang thành thái giám.

Trung-tá J.F. Corter, cố vấn trưởng trung đoàn được trung đội trưởng trinh sát báo cáo Hummer tử trận lúc 11 giờ 15. Ông ngạc nhiên hỏi:

- Hummer chết lúc 11.15 giờ, mà tại sao tôi vẫn thấy y chỉ huy trực thăng, báo cáo cho đến lúc 17 giờ?

Vì được học kỹ về tinh thần trách nhiệm, Quang nói rằng mình là người lạm quyền, giả lệnh Hummer, thay Hummer chỉ huy. Quang xin lỗi Corter. Trung-tá J.F. Corter tưởng Quang là lính người lớn, đề nghị gắn huy chương Hoa Kỳ cho Quang. Bấy giờ mới lòi đuôi chuột ra rằng các ông cựu Thiếu Sinh Quân đã uống thuốc liều, cho thằng em sữa ra trận.

Đúng ra theo quân luật, mấy ông anh bị phạt nặng, Quang bị đưa ra tòa vì "Không có tư cách mà lại chỉ huy". Nhưng các vị sĩ quan trong sư đoàn 21, trung đoàn 31 cũng như cố vấn đều là những người của chiến trường, tính tình phóng khoáng, nên câu truyện bỏ qua. Quang không được gắn huy chương, mà mấy ông anh cũng không bị phạt. Hết hè, Quang trở về trường mang theo kỷ niệm chiến đấu cực đẹp trong đời cậu bé, mà cũng là kỷ niệm đẹp vô cùng của Thiếu Sinh Quân Việt Nam. Câu truyện này trở thành huyền thoại. Huyền thoại này lan truyền mau lẹ khắp năm tỉnh của khu 42 chiến thuật : Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Chương Thiện. Quang trở thành người hùng lý tưởng của những thiếu nữ tuổi 15-17!

Năm 1974, sau khi đỗ chứng chỉ 2 Bộ Binh, Quang ra trường, mang cấp bậc trung sĩ. Quang nộp đơn xin về sư đoàn 21 Bộ Binh. Quang được toại nguyện. Sư đoàn phân phối Quang về tiểu đoàn Ngạc Thần tức tiểu đoàn 2 trung đoàn 31, tiểu đoàn của Trần Minh sáu năm trước. Thế là giấc mơ 6 năm trước của Quang đã thành sự thực.

Trung đoàn 31 Bộ Binh đóng tại Chương Thiện. Bấy giờ tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng Chương Thiện là Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, tham mưu trưởng tiểu khu là Thiếu Tá Nguyễn Văn Thời. Cả hai đều là cựu Thiếu Sinh Quân. Đại-tá Cẩn là cựu Thiếu Sinh Quân cao niên nhất vùng Chương Thiện bấy giờ (36 tuổi). Các cựu Thiếu Sinh Quân trong tiểu đoàn 2-31 dẫn Quang đến trình diện anh hai Cẩn. Sau khi anh em gặp nhau, Cẩn đuổi tất các tùy tùng ra ngoài, để anh em tự do xả xú báp.

Cẩn bẹo tai Quang một cái, Quang đau quá nhăn mặt. Cẩn hỏi:

- Ê ! Quang, nghe nói mày lĩnh bẩy viên đạn mà không chết, thì mày thuộc loại mình đồng da sắt. Thế sao tao bẹo tai mày, mà mày cũng đau à?

- Dạ, đạn Việt-cộng thì không đau. Nhưng vuốt anh cấu thì đau.

- Móng tay tao, đâu phải vuốt?

- Dạ, người ta nói anh là cọp U Minh Thượng…Thì vuốt của anh phải sắc lắm.

- Hồi đó suýt chết, thế bây giờ ra trận mày có sợ không?

- Nếu khi ra trận anh sợ thì em mới sợ. Cái lò Thiếu Sinh Quân có bao giờ nặn ra một thằng nhát gan đâu?

- Thằng này được. Thế mày đã trình diện anh Thời chưa?

- Dạ anh Thời-thẹo không có nhà.

Thiếu Tá Nguyễn Văn Thời, tham mưu trưởng Tiểu-khu, uy quyền biết mấy, thế mà một trung sĩ 18 tuổi dám gọi cái tên húy thời thơ ấu ra, thì quả là một sự phạm thượng ghê gớm. Nhưng cả Thời lẫn Quang cùng là cựu Thiếu Sinh Quân thì lại là một sự thân mật. Sau đó anh em kéo nhau đi ăn trưa. Lớn, bé cười nói ồn ào, như không biết tới những người xung quanh.

Bấy giờ tin Trần Minh đã đền nợ nước tại giới tuyến miền Trung. Sự ra đi của người đàn anh, của người hùng lý tưởng làm Quang buồn không ít. Nhưng huyền thoại về Trần Minh lưu truyền, càng làm chính khí trong người Quang bừng bừng bốc lên.

Tại sư đoàn 21 Bộ Binh, tất cả các hạ sĩ quan cũng như các Thiếu Sinh Quân mới ra trường, thường chỉ được theo hành quân như một khinh binh. Đợi một vài tháng đã quen với chiến trường, rồi mới được chỉ định làm tiểu đội trưởng. Nhưng vừa trình diện, Quang được cử làm trung đội phó ngay, dù hầu hết các tiểu đội trưởng đều ở cấp trung sĩ, trung sĩ nhất, mà những người này đều vui lòng. Họ tuân lệnh Quang răm rắp!

Sáu tháng sau, đầu năm 1975 nhờ chiến công, Quang được thăng trung sĩ nhất, nhưng chưa đủ một năm thâm niên, nên chưa được gửi đi học sĩ quan. Quang trở thành nổi tiếng trong trận đánh ngày 1-2-1975, tại Thới Lai, Cờ Đỏ. Trong ngày hôm ấy, đơn vị của Quang chạm phải tiểu đoàn Tây Đô. Đây là một tiểu đoàn được thành lập từ năm 1945, do các sĩ quan Nhật Bản không muốn về nước, trốn lại Việt Nam…huấn luyện. Quang đã được Đại Ttá Hồ Ngọc Cẩn giảng về kinh nghiệm chiến trường:

"Tây Đô là tiểu đoàn cơ động của tỉnh Cần Thơ. Tiểu đoàn có truyền thống lâu đời, rất thiện chiến. Khi tác chiến cấp đại đội, tiểu đoàn chúng không hơn các đơn vị khác làm bao. Nhưng tác chiến cấp trung đội, chúng rất giỏi. Chiến thuật thông thường, chúng dàn ba tiểu đội ra, chỉ tiểu đội ở giữa là nổ súng. Nếu thắng thế, thì chúng bắn xối xả để uy hiếp tinh thần ta, rồi hai tiểu đội hai bên xung phong. Nếu yếu thế, thì chúng lui. Ta không biết, đuổi theo, thì sẽ dẫm phải mìn, rồi bị hai tiểu đội hai bên đánh ép. Vì vậy khi đối trận với chúng, phải im lặng không bắn trả, để chúng tưởng ta tê liệt. Khi chúng bắt đầu xung phong, thì dùng vũ khí cộng đồng nã vào giữa, cũng như hai bên. Thấy chúng chạy, thì tấn công hai bên, chứ đừng đuổi theo. Còn như chúng tiếp tục xung phong ta phải đợi chúng tới gần rồi mớí phản công".

Bây giờ Quang có dịp áp dụng. Sau khi trực thăng vận đổ quân xuống. Cả đại đội của Quang bị địch pháo chụp lên đầu, đại liên bắn xối xả. Không một ai ngóc đầu dậy được. Nhờ pháo binh, trực thăng can thiệp, sau 15 phút đại đội đã tấn công vào trong làng. Vừa tới bìa làng, thiếu úy trung đội trưởng của Quang bị trúng đạn lật ngược. Quang thay thế chỉ huy trung đội. Trung đội dàn ra thành một tuyến dài đến gần trăm mét. Đến đây, thì phi pháo không can thiệp được nữa, vì quân hai bên chỉ cách nhau có 100 mét, gần như lẫn vào nhau. Nhớ lại lời giảng của Cẩn, Quang ra lệnh im lặng, chỉ nổ súng khi thấy địch. Ngược lại ngay trước mặt Quang, khoảng 200 thước là một cái hầm lớn, ngay trước hầm hai khẩu đại liên không ngừng nhả đạn. Quang ghi nhận vị trí hai khẩu đại liên với hai khẩu B40 ra lệnh:

"Lát nữa khi chúng xung phong thì dùng M79 diệt hai khẩu đại liên, B40, rồi hãy bắn trả".

Sau gần 20 phút, thình lình địch xả súng bắn xối xả như mưa, như gió, rồi tiếng hô xung phong phát ra. Chỉ chờ có thế, M79 của Quang khai pháo. Đại liên, B40 bị bắn tung lên, trong khi địch đang xung phong. Bấy giờ trung đội của Quang mới bắn trả. Chỉ một loạt đạn, toàn bộ phòng tuyến địch bị cắt. Quang ra lệnh xung phong. Tới căn hầm, binh sĩ không dám lại gần, vì bị lựu đạn từ trong ném ra. Quang ra lệnh cho hai khẩu đại liên bắn yểm trợ, rồi cho một khinh binh bò lại gần, tung vào trong một quả lựu đạn cay. Trong khi Quang hô:

- Ra khỏi hầm, dơ tay lên đầu ! Bằng không lựu đạn sẽ ném vào trong.

Cánh cửa hầm mở ra, mười tám người, nam có, nữ có, tay dơ lên đầu, ra khỏi hầm, lựu đạn cay làm nước mắt dàn dụa.

Đến đây trận chiến chấm dứt.

Thì ra 18 người đó là đảng bộ và ủy ban nhân dân của huyện châu thành Cần Thơ. Trong đó có viên huyện ủy và viên chủ tịch ủy ban nhân dân huyện.

Sau trận này Quang được tuyên dương công trạng trước quân đội, được gắn huy chương Anh Dũng Bội Tinh với nhành dương liễu. Trong lễ chiến thắng giản dị, Quang được một nữ sinh trường Đoàn Thị Điểm quàng vòng hoa. Nữ sinh đó tên Nguyễn Hoàng Châu, 15 tuổi, học lớp đệ ngũ. Cho hay, anh hùng với giai nhân xưa nay thường dễ cảm nhau. Quang, Châu yêu nhau từ đấy. Họ viết thư cho nhau hàng ngày. Khi có dịp theo quân qua Cần Thơ, thế nào Quang cũng gặp Châu. Đôi khi Châu táo bạo, xuống Chương Thiện thăm Quang. Mẹ Quang biết truyện, bà lên Cần Thơ gặp cha mẹ Châu. Hai gia đình đính ước với nhau. Họ cùng đồng ý : Đợi năm tới, Quang xin học khóa sĩ quan đặc biệt, Châu 17 tuổi, thì cho cưới nhau.


Nhưng mối tình đó đã đi vào lịch sử…

Tình hình toàn quốc trong tháng 3, tháng 4 năm 1975 biến chuyển mau lẹ. Ban Mê Thuột bị mất, Quân Đoàn 2 rút lui khỏi Cao Nguyên, rồi Quân Đoàn 1 bỏ mất lãnh thổ. Rồi các sĩ quan bộ Tổng Tham Mưu được Hoa Kỳ bốc đi. Ngày 29-4, trung đội của Quang chỉ còn mười người. Tiểu đoàn trưởng, đại đội trưởng bỏ ngũ về lo di tản gia đình. Quang vào bộ chỉ huy tiểu khu Chương Thiện trình diện Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn. Cẩn an ủi:

- Em đem mấy người thuộc quyền vào đây ở với anh.

Ngày 30 tháng 4 năm 1975, viên tướng mặt bánh đúc, đần độn Dương Văn Minh phát thanh bản văn ra lệnh cho quân đội Việt Nam Cộng-hòa buông súng đầu hàng. Tất cả các đơn vị quân đội miền Nam tuân lệnh, cởi bỏ chiến bào, về sống với gia đình. Một vài đơn vị lẻ lẻ còn cầm cự. Tiếng súng kháng cự của các đơn vị Dù tại Sài-gòn ngừng lúc 9 giờ 7 phút.

Đúng lúc đó tại Chương Thiện, tỉnh trưởng kiêm Tiểu Khu trưởng là Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn. Ông đang chỉ huy các đơn vị thuộc quyền chống lại cuộc tấn công của Cộng quân. Phần thắng đã nằm trong tay ông. Lệnh của Dương Văn Minh truyền đến. Các quận trưởng chán nản ra lệnh buông súng. Chỉ còn tỉnh lỵ là vẫn chiến đấu. Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn ra lệnh:

"Dương Văn Minh lên làm Tổng-thống trái với hiến pháp. Ông ta không có tư cách của vị Tổng Tư Lệnh. Hãy tiếp tục chiến đấu".

Nhưng đến 12 giờ trưa, các đơn vị dần dần bị tràn ngập, vì quân ít, vì hết đạn vì mất tinh thần. Chỉ còn lại bộ chỉ huy tiểu khu. Trong bộ chỉ huy tiểu khu, có một đại đội địa phương quân cùng nhân viên bộ ham mưu. Đến 13 giờ, lựu đạn, đạn M79 hết. Tới 14 giờ 45, thì đạn hết, làn sóng Cộng quân tràn vào trong bộ chỉ huy. Cuối cùng chỉ còn một ổ kháng cự từ trong một hầm chiến đấu, nơi đó có khẩu đại liên. Một quả lựu đạn cay ném vào trong hầm, tiếng súng im bặt. Quân Cộng Sản vào hầm lôi ra hai người. Một là Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, tỉnh trưởng, kiêm tiểu khu trưởng và một trung sĩ mớí 19 tuổi. Trung sĩ đó tên là Vũ Tiến Quang.

Bấy giờ đúng 15 giờ.

Kẻ chiến thắng trói người chiến bại lại. Viên đại tá chính ủy của đơn vị có nhiệm vụ đánh tỉnh Chương Thiện hỏi:

- Đ.M. Tại sao có lệnh đầu hàng, mà chúng mày không chịu tuân lệnh?

Đại Tá Cẩn trả lời bằng nụ cười nhạt.

Trung sĩ Quang chỉ Đại Tá Cẩn:

- Thưa đại tá, tôi không biết có lệnh đầu hàng. Ví dù tôi biết, tôi cũng vẫn chiến đấu. Vì anh ấy là cấp chỉ huy trực tiếp của tôi. Anh ra lệnh chiến đấu, thì tôi không thể cãi lệnh.

Cộng quân thu nhặt xác chết trong, ngoài bộ chỉ huy tiểu khu. Viên chính ủy chỉ những xác chết nói với Đại Tá Cẩn:

- Chúng mày là hai tên ngụy ác ôn nhất. Đ.M. Chúng mày sẽ phải đền tội.

Đại Tá Cẩn vẫn không trả lời, vẫn cười nhạt. Trung sĩ Quang ngang tàng:

- Đại tá có lý tưởng của đại tá, tôi có lý tưởng của tôi. Đại tá theo Karl Marx, theo Lénine; còn tôi, tôi theo vua Hùng, vua Trưng. Tôi tuy bại trận, nhưng tôi vẫn giữ lý tưởng của tôi. Tôi không gọi đại tá là tên Việt Cộng. Tại sao đại tá lại mày tao, văng tục với chúng tôi như bọn ăn cắp gà, phường trộm trâu vậy? Phải chăng đó ngôn ngữ của đảng Cộng-sản?

Viên đại tá rút súng kề vào đầu Quang:

- Đ.M. Tao hỏi mày, bây giờ thì mày có chính nghĩa hay tao có chính nghĩa?

- Xưa nay súng đạn trong tay ai thì người đó có lý. Nhưng đối với tôi, tôi học trường Thiếu Sinh Quân, súng đạn là đồ chơi của tôi từ bé. Tôi không sợ súng đâu. Đại tá đừng dọa tôi vô ích. Tôi vẫn thấy tôi có chính nghĩa, còn đại tá không có chính nghĩa. Tôi là con cháu Hoài Văn Vương Trần Quốc Toản mà.

- Đ.M. Mày có chịu nhận mày là tên ngụy không?

- Tôi có chính nghĩa thì tôi không thể là ngụy. Còn Cộng quân dùng súng giết dân mới là ngụy, là giặc cướp. Tôi nhất quyết giữ chính khí của tôi như Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng, như Nguyễn Biểu.

Quang cười ngạo nghễ:

- Nếu đại tá có chính nghĩa tại sao đại tá lại dùng lời nói thô tục vớí tôi? Ừ! Muốn mày tao thì mày tao. Đ.M. tên Cộng Sản ác ôn! Nếu tao thắng, tao dí súng vào thái dương mày rồi hỏi: Đ.M.Mày có nhận mày là tên Việt Cộng không? Thì mày trả lời sao?

Một tiếng nổ nhỏ, Quang ngã bật ngửa, óc phọt ra khỏi đầu, nhưng trên môi người thiếu niên còn nở nụ cười. Tôi không có mặt tại chỗ, thành ra không mường tượng ý nghĩa nụ cười đó là nụ cười gì? Độc giả của tôi vốn thông minh, thử đoán xem nụ cưòi đó mang ý nghĩa nào? Nụ cười hối hận ? Nụ cười ngạo nghễ? Nụ cười khinh bỉ? Hay nụ cười thỏa mãn?


Ghi chú :

Nhân chứng quan trọng nhất, chứng kiến tận mắt cái chết của Vũ Tiến Quang thuật cho tác giả nghe là cô Vũ Thị Quỳnh Chi. Cô là em ruột của Quang, nhỏ hơn Quang 4 tuổi. Lúc anh cô bị giết, cô mới 15 tuổi (cô sinh năm 1960). Hiện (1999) cô là phu nhân của bác sĩ Jean Marc Bodoret, học trò của tôi, cư trú tại Marseille.

Cái lúc mà Quang ngã xuống, thì trong đám đông dân chúng tò mò đứng xem có tiếng một thiếu nữ thét lên như xé không gian, rồi cô rẽ những người xung quanh tiến ra ôm lấy xác Quang. Thiếu nữ đó là Nguyễn Hoàng Châu. Em gái Quang là Vũ thị Quỳnh Chi đã thuê được chiếc xe ba bánh. Cô cùng Nguyễn Hoàng Châu ôm xác Quang bỏ lên xe, rồi bọc xác Quang bằng cái Poncho, đem chôn.

Chôn Quang xong, Châu từ biệt Quỳnh Chi, trở về Cần Thơ. Nhưng ba ngày sau, vào một buổi sáng sớm Quỳnh-Chi đem vàng hương, thực phẩm ra cúng mộ anh, thì thấy Châu trong bộ y phục trắng của nữ sinh, chết gục bên cạnh. Mặt Châu vẫn tươi, vẫn đẹp như lúc sống. Đích thân Quỳnh Chi dùng mai, đào hố chôn Châu cạnh mộ Quang.

Năm 1998, tôi có dịp công tác y khoa trong đoàn Liên Hiệp các viện bào chế Châu Âu (CEP= Coopérative Européenne Pharmaceutique), tôi đem J.M Bodoret cùng đi, Quỳnh Chi xin được tháp tùng chồng. Lợi dụng thời gian nghỉ công tác 4 ngày, từ Sài-gòn, chúng tôi thuê xe đi Chương Thiện, tìm lại ngôi mộ Quang-Châu. Ngôi mộ thuộc loại vùi nông một nấm dãi dầu nắng mưa, cỏ hoa trải 22 năm, rất khó mà biết đó là ngôi mộ. Nhưng Quỳnh-Chi có trí nhớ tốt. Cô đã tìm ra. Cô khóc như mưa, như gió, khóc đến sưng mắt. Quỳnh-Chi xin phép cải táng, nhưng bị từ chối. Tuy nhiên, cuối cùng có tiền thì mua tiên cũng được. Giấy phép có. Quỳnh-Chi cải táng mộ Quang-Châu đem về Kiên Hưng, chôn cạnh mộ của ông Vũ Tiến Đức. Quỳnh-Chi muốn bỏ hài cốt Quang, Châu vào hai cái tiểu khác nhau. Tôi là người lãng mạn. Tôi đề nghị xếp hai bộ xương chung với nhau vào trong một cái hòm. Bodoret hoan hô ý kiến của sư phụ.

Ngôi mộ của ông Đức, của Quang-Châu xây xong. Tôi cho khắc trên miếng đồng hàng chữ:


"Nơi đây AET Vũ Tiến Quang, 19 tuổi,

An giấc ngàn thu cùng

Vợ là Nguyễn Hoàng Châu

Nở nụ cười thỏa mãn vì thực hiện được giấc mộng"


Giấc mộng của Quang mà tôi muốn nói, là: được nhập học trường Thiếu Sinh Quân, rồi trở thành anh hùng. Giấc mộng của Châu là được chết, được chôn chung với người yêu. Nhưng người ta có thể hiểu rằng: Quang thỏa mãn nở nụ cười vì mối tình trọn vẹn.


Paris ngày 13 tháng 4 năm 1999.


Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ. (Từ Lịch Sử Thiếu Sinh Quân Việt Nam)





3. TRƯỜNG THIẾU SINH QUÂN QUÂN QLVNCH VÀ CUỘC “CHỐNG TRẢ” SAU CÙNG.




3. TRƯỜNG THIẾU SINH QUÂN QUÂN QLVNCH VÀ CUỘC “CHỐNG TRẢ” SAU CÙNG.



Đồng bào trong nước, và dân cư Vũng Tàu còn nhớ, cũng như Người Việt Quốc Gia Tỵ Nạn Cộng Sản Hải Ngoại nghe truyền tụng rằng: “Giờ thứ 25”, giờ phút sau cùng của Ngày “TANG CHỀ” của toàn thể Quân Dân Việt Nam Cộng Hoà, 30-04-1975, về sự hào hùng kháng cự, của các “Chú lính tí hon” Thiếu Sinh Quân, tự chỉ huy (không có cán bộ nhà Trường), cho đến giờ phút cuối cùng.


* Trong lúc đó, tất cả các đơn vị, trước đây đồn trú tại Vũng Tàu đều “rã ngũ”;


* Trong khi tại Thủ Đô Sài Gòn, T.54 Cộng sản đã ủi sập cổng chính Dinh Độc Lập và chiếm cứ Thủ Đô Việt Nam Cộng Hoà của chúng ta.


Chỉ có hai nơi, vẫn còn đang tiếp tục kiên cường chiến đấu, kháng cự không chịu buông súng đầu hàng giặc Cộng. Đó là tại Tỉnh lỵ Chương Thiện do Vị Tỉnh Trưởng gốc Thiếu sinh quân, Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn (được tường thuật ở đoạn trên) và Trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam Cộng Hòa tại Thị Xã Vũng Tàu.


Trường Thiếu Sinh Quân trấn đóng ngay cửa ngõ con đường dẫn vào Thị Xã Vũng Tàu. Cộng quân huy động cả Trung Đoàn Bộ Binh để tấn chiếm Vũng Tàu trên đường xâm nhập từ Tỉnh Bà Rịa vào Vũng Tàu, bắt buộc phải xuyên qua cửa ải Trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam. Đoàn quân Cộng sản, khi vừa tới ngã ba “Bến Đình & Vũng Tàu” thì chạm ngay một lực lượng chống trả (địch chưa biết rõ thực lực của TSQ), trấn thủ bên trong ngôi thành vách đá rộng lớn, phía trước cổng có đề chữ Trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam. Các Thiếu Sinh Quân đóng kín cửa trường, và từ các lỗ châu mai, với những khẩu Đại Liên M.60, các khẩu phóng lựu M.79, các khẩu súng trường M.16, thi đua nhau khạc đạn chận đoàn quân Cộng sản đang hùng hổ tiến vào…sau vài lần cố vượt qua, nhưng tất cả đều bị bắn ngã… Cuối cùng Công Quân phải điều động một Chi Đội T.54 từ Tỉnh Bà Rịa đến trợ chiến, dùng Đại Bác 100 ly của chiến xa bắn thủng cửa thành, gây thêm thương tích cho một vài em TSQ bên trong… Chiến xa dàn trận…Cộng quân phát loa kêu “đầu hàng”!!


Tình hình nội bộ bên trong Trường, lúc bấy giờ có khoảng 1,000 chú lình tí hon: 7/10 dưới 14 tuổi), phần còn lại là các em lớp 12 cũng dưới 18 tuổi, tổ chức thành các Đại Đội chiến đấu, y như các bậc đàn anh “Lính Chiến” chuyên nghiệp, của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, (các Đại Đội TSQ được chỉ huy bởi các em lớp 12), Một số bị thương (tự băng bó lấy, không có y tá cũng như Bác Sĩ). Không có ai “nấu cơm cho ăn” như thường ngày… Vì sức cô, thế yếu trước đoàn quân hung hăng của Cộng sản có cả T.54 trợ chiến, buộc lòng các em phải cử phái đoàn cầm cờ trắng ra “thương thuyết”. Một em Thiếu Sinh Quân lớp 12 tiến đến gặp viên Chính Ủy để ra điều kiện: “Các Ông không được tiến lấn thêm một bước nào nữa và phải để cho chúng tôi làm lễ hạ Quốc kỳ và cuốn lại Quân kỳ, thì chúng tôi mới chịu “đầu hàng”.


Vì muốn đạt được mục tiêu “Chiếm Thị Xã Vũng Tàu” như đã dự định, (đã bị các TSQ cầm chận hơn nửa ngày tại ngã ba đường vào Vũng Tàu), trong cái thế chẳng đặng đừng !!! Hơn thế nữa, không biết trong trường TSQ có bao nhiêu “Chiến Binh gan lì”? chịu tử thủ, tiếp tục chống cự.??.. Viên Chính Ủy phải chấp nhận ”điều kiện” của người đại diện Thiếu Sinh Quân. Và các Em tập họp trước Vũ Đình Trường…trịnh trọng cử hành lễ hạ Quốc Kỳ Việt Nam Cộng Hoà và cuốn lại Quân Kỳ của Trường Thiếu sinh Quân Việt Nam Cộng Hòa.


Như vậy, mặc dù các Em TSQ chịu “gác súng” đầu hàng, lực lượng Cộng quân đang ở thế thượng phong, nhưng tên Chính Ủy của đoàn quân đang đà chiến thắng, cũng phải nể phục, đứng nhìn Quân kỳ của Trường Thiếu Sinh Quân có thêu ba chữ “Nhân Trí Dũng” cuốn lại và lá Quốc Kỳ “nền vàng ba sọc đỏ” của Việt Nam Cộng Hòa từ từ hạ xuống, một cách trịnh trọng và trang nghiêm.


Trong khi trước đó, tại Dinh Độc Lập Sài Gòn,(phía trước tiền đình Dinh Độc Lập) một tên cán binh”quèn”, leo lên sân thượng, hạ cờ Quốc Gia xuống, và cột cờ “Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam” lên, một cách rất ư là cẩu thả.


Sau khi làm lễ “hạ kỳ”, khoảng 1,000 em Thiếu sinh Quân bị Cộng quân giam lỏng trong khuôn viên nhà trường; Nhưng rồi, lần hồi trong đêm tối, nhờ am tường địa hình địa vật nơi ngôi “Trường Mẹ”, các em mở cửa sau, lẩn vào “Núi Lớn” Vũng Tàu, đào thoát ra được hết bên ngoài, hòa nhập vào đoàn người đang trốn chạy nanh vuốt của “loài quỷ đỏ” Phương Bắc


Trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam, đã trải qua bao nổi thăng trầm, theo thời gian và thời cuộc. Nhưng Ba chữ Thiếu Sinh Quân vẫn còn ”Trơ gan cùng tuế nguyệt”; Tập thể Cựu Thiếu Sinh Quân Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà tại Hải Ngoại, hiện nay vẫn còn mộng ước trở về Đất Tổ Việt Nam, để cùng nhau quang phục Quê Hương Xứ Sở.


Bài của Cựu TSQ/QLVNCH Nguyễn Ngọc Ánh

Với phần bổ túc về Người Lính Nhỏ Chính Khí Lớn Vũ Tiến Quang của Yên Tử

Cư Sĩ Trần Đại Sỹ


Cố Đại Tá Nhạc Sĩ AET Nguyễn Văn Đông 👈

NHỮNG GÌ CÒN LẠI

Ns Tuấn Khanh

Trong đám tang của Chris Kyle, tay bắn tỉa lừng danh nhất nước Mỹ, qua đời năm 2015 ở Texas, người ta nhìn thấy chiếc xe tang đi qua một đoạn đường dài hơn 300 cây số mà suốt hai bên đường, luôn có người dân đứng vẫy cờ hoặc nghiêm chào tiễn biệt.

Đó là một hình ảnh xúc động hiếm có về cái chết của một con người. Chris Kyle làngười lính SEAL được ca ngợi như một thiên thần hộ mạng vì đã cứu cả trăm đồng đội của mình trên chiến trường Trung Đông nhờ tài bắn tỉa. Anh giải ngũ, trở về nhà và sau đó chết như một người lính.

Rằm tháng Giêng Mậu Tuất, tức ngày 2/3/2018 tại Sài Gòn, đám tang của nhạc sĩ, đại tá Nguyễn Văn Đông cũng xuất hiện một cảnh tượng xúc động tương tự. Khi lễ di quan diễn ra, nhiều người đàn ông mặc thường phục, không ai bảo ai, đã bất ngờ đưa tay lên chào theo kiểu nhà binh. Thấp thoáng trong những hàng khác, cũng có những cá nhân im lặng đưa tay chào, không cần hiệu lệnh. Hầu hết đó là những cựu thiếu sinh quân VNCH cùng trường với ông, và những người khác là cựu quân nhân đã chào tiễn biệt ngài đại tá Chánh Văn phòng của Tổng Tham mưu Phó quân lực Việt Nam Cộng Hòa về nơi an nghỉ cuối cùng.

Hàng người đứng chào theo kiểu nhà binh trước đám tang của nhạc sĩ – đại tá Nguyễn Văn Đông, đem lại niềm xúc động lạ thường, tương tự như hình ảnh tiễn xe tang của Chris Kyle. Nhưng có lẽ còn đặc biệt hơn với câu chuyện Việt Nam, khi mọi thứ về con người và hệ thống của chính quyền miền Nam bị săn lùng, giam giữ và hủy diệt nhiều năm, nhưng vẫn ẩn khuất đâu đó, rồi bất ngờ hiển lộ.

Nhưng ngoài âm nhạc, vẫn còn đôi chuyện về đại tá Nguyễn Văn Đông chưa được nói hết. Bài viết này là những gì còn lại, chưa kể, sau cuộc tiễn đưa đó.

Đọc tiểu sử cá nhân sau năm 1975, người ta chỉ biết ngắn gọn rằng nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông đi trại tù của Nhà nước Bắc Việt trong 10 năm, và sau đó không đi Mỹ theo diện H.O (Humanitarian Operation). Đó là một chiến dịch nhân đạo do tổng thống Mỹ Ronald Reagan bật đèn xanh nhằm giải thoát hàng trăm ngàn quân nhân cựu quân nhân VNCH bị đưa đi tù, dưới danh nghĩa cải tạo (Special Release Reeducation Center Detainee Resettlement Program). Mọi thứ về đời của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, lâu nay vẫn được mô tả thoáng qua, y như cách mà báo chí Nhà nước đưa tin ông mất. Ấy vậy mà vài ngày sau đám tang, nhiều tờ báo vẫn còn bị khiển trách vì đã có thái độ trân trọng thái quá với một “sĩ quan ngụy”.

Năm 1975, ngay sau khi đại tá Nguyễn Văn Đông ra trình diện, dù được chính quyền quân quản tuyên bố là chỉ đi “học tập tư tưởng mới” trong vài tháng. Thế nhưng, sự thật sau đó là 10 năm dài tù đày ở trại Suối Máu, Biên Hòa. Cho đến sau năm 1980 thì đưa về Chí Hòa. Đại tá Nguyễn Văn Đông được trả về nhà vào năm 1985 để được chết ở nhà, theo chính sách khoan hồng của cách mạng. Bà Nguyệt Thu, vợ của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông kể rằng khi chia tay ông 10 năm trước, bà vẫn còn nhớ hình dáng một người đàn ông gầy nhưng khỏe mạnh, để rồi khi nhận lại ông, thì lúc đó gần như chỉ là một cái xác, chỉ còn thoi thóp.

Bà Nguyệt Thu, vợ của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông kể lại rằng gia đình lúc đó chỉ còn đợi ngày để chôn ông, vì do ông mang quá nhiều căn bệnh cũng như thuốc men lại quá đắt đỏ và khan hiếm vào thời đó.

Rồi nhiều năm sau, ông sống lại như một kỳ tích, khỏe mạnh. Hai người im lặng sống trong căn nhà nhỏ chỉ có đôi vợ chồng già, không con cái, không nhiều sinh hoạt với xã hội. Bà Nguyệt Thư nói rằng cho đến nhiều năm sau khi ông được thả về, bà vẫn còn khả năng sinh con nhưng ông không còn có thể. Vì vậy hai người đã chọn sống cô đơn cùng nhau đến ngày chung cuộc.

Lời của bà kể như tiếng chuông chùa xa xăm về một nỗi đau không lời. Về với ông được 2 năm, thì bà bị chia cắt với đại tá bởi 10 năm tù không hề tòa án, cũng như không hề có lời giải thích. Khi được trả về nhà, thì ông đã như một phế nhân.

Bà nói rằng không muốn sinh con vì ông quá yếu. Nhưng cũng có thể bà không muốn có một đứa con, bởi cuộc sống như ác mộng mà bà và ông trãi qua, nếu có đơm hoa kết trái thì chắc cũng không thể có được lúc tỏa hương.

Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông bị đưa đến trại Suối Máu ngay sau khi trình diện. Thực tế là trại này tên là trại Tân Hiệp, Biên Hòa, từng là nơi giam giữ các binh sĩ Bắc Việt chờ trao trả theo các thỏa ước. Tên Suối Máu là do các tù nhân sau năm 1975 gọi thành quen mặc dù bị quản giáo cấm. Bởi năm 1968, cuộc đột kích thất bại ở cứ điểm này, mà dân trong vùng mô tả máu dân thường và của hai bên Nam Bắc chảy như suối, từ đó mà thành tên.

Trại Suối Máu giam giữ khoảng 5000 người, chia làm năm trại theo ký hiệu K. Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông ở K5.

Chỉ một năm ở trại này, do điều kiện giam giữ và ăn uống khắc nghiệt, không chỉ đại tá Nguyễn Văn Đông mang bệnh, mà rất nhiều người cũng đổ ra đủ thứ bệnh từ nội khoa đến ngoại khoa. Mà thuốc thì chủ yếu là một loại dược phẩm dân tộc được bào chế ở miền bắc có tên là Xuyên Tâm Liên. Bệnh gì cũng uống một loại ấy.

Nhà văn Hà Thúc Sinh, tác giả của tác phẩm Đại Học Máu, đã kể rằng nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông vì bị mang bệnh ghẻ nhầy nhụa kỳ lạ, khiến cả mảng lưng của ông lở loét. Đã vậy nhiều chứng bệnh khác như đau bao tử, thấp khớp, huyết áp… ập tới hành hạ ông liên tục nhiều năm. Vào lúc thập tử nhất sinh, anh em khiêng lên trạm xá được ít bữa thì y tá ở đó đuổi về. Lý do là ở bệnh xá không có thuốc điều trị, cũng như cho về thì khỏi mang trách nhiệm.

Nhà văn Hà Thúc Sinh viết rằng mấy người bạn của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông khiêng ông ra hố nước để tắm lại sau nhiều ngày nằm liệt, như một cách giúp duy nhất có thể. Nhưng do phải đi lao động nên mọi người chỉ kịp nhìn thấy ông Nguyễn Văn Đông nằm sấp trên mặt đất, chứ không còn đứng nổi, cố múc nước rồi nằm quơ quào cố tắm rửa một mình như vậy.

Nói về sáng tác trong giai đoạn đó, đại tá Nguyễn Văn Đông đã cố giữ lại cảm hứng của mình trong những năm đầu bị tù, vì nghĩ rằng cùng lắm 2-3 năm gì đó sẽ ra. Nhưng rồi dần dần mọi thứ thui chột theo sức khỏe và niềm hy vọng. Ngay lúc bệnh đã nặng, nhưng phát hiện tù nhân Đỗ Văn Phúc là em họ của ca sĩ Duy Khánh cũng bị tù chung trại, ông đã vui đến mức sáng tác lại. Cảm mến giọng hát của người này mà nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông viết riêng một bài hát để tặng, có tựa đề là “Sài Gòn trong trái tim tôi”. Tác phẩm này, giờ chắc đã tuyệt bút, chỉ còn được nhắc lại với đôi ba câu với những ai từng nghe qua như “Sài Gòn tiếc nuối không thôi, Hà Nội héo hắt răng môi, cho nhớ thương vời vợi. Ôi, Sài gòn trong trái tim tôi…”

Năm 1985, khi khiêng ông về nhà, bà Nguyệt Thu nói rằng không nghĩ ông sống qua được năm đó. Sự tuyệt vọng tràn ngập đến mức khi nhận được hồ sơ ghi danh đi chương trình H.O ngay trong nhóm đầu, ông đã từ chối vì muốn được chết trên quê hương mình. Bà cũng thuận theo ý ông. Ấy vậy mà với sự chăm sóc nhẫn nại và yêu thương của người vợ hiền, nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông đã chậm chạp sống lại một lần nữa, cho đến ngày buộc phải chia tay trần thế.

Khác với cuộc đưa tiễn người lính Chris Kyle, buổi chia tay nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông không có nhiều người khóc. Chỉ có những cánh tay đưa lên, im lặng chào đưa tiễn ông. Động tác rất quen thuộc khiến những người xa lạ nhau như gần lại. Có điều gì đó dâng lên trong suy nghĩ, đầy xúc động. Quả là có những triều đại nguy nga lộng lẫy, nhưng mọi thứ đã không còn. Nhưng cũng có những chế độ đã mất nhưng con người và tinh thần quốc gia thì còn sống mãi. From Thieu CongTu FB